ĐẢng bỘ tỈnh bÀ rỊa vŨng tÀu lÃnh ĐẠo phÁt triỂn kinh...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐINH VĂN AN
ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
HÀ NỘI - Năm 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐINH VĂN AN
ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 22 03 15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Đinh Quang Hải
2. TS Lê Thị Minh Hạnh
HÀ NỘI - Năm 2018
1
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................................................................... 7
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ......................... 7
1.2. Nhận xét về kết quả nghiên cứu và luận án tiếp tục làm rõ ....................... 24
Chƣơng 2: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
BÀ RỊA - VŨNG TÀU PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH (1991 - 2005) ...... 28
2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu .............................................................. 28
2.2. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vận dụng chủ trương của Đảng,
lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 1991 - 2005 ........................ 42
2.3. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo phát triển kinh tế du lịch
(1991 - 2005).............................................................................................. 54
Chƣơng 3: ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU LÃNH ĐẠO ĐẨY
MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015 ...... 71
3.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
đẩy mạnh về phát triển kinh tế du lịch (2005 - 2015) .............................. 71
3.2. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế
du lịch từ năm 2005 đến năm 2015 ........................................................... 80
Chƣơng 4. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ................................................... 105
4.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát
triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015 .................................... 105
4.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................... 134
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 148
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 152
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 169
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Đinh Văn An
3
NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNH, HĐH:
GDP
KT-XH
KHXH&NV
NXB
THCN
UN - WTO
UBND
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tổng sản phẩm quốc nội
Kinh tế - xã hội
Khoa học xã hội và nhân văn
Nhà xuất bản
Trung học chuyên nghiệp
Tổ chức Du lịch Thế giới
(World Tourist Organization)
Ủy ban nhân dân
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ PHỤ LỤC
STT Tên bảng biểu Trang
Bảng 2.1 Lao động trong ngành du lịch giai đoạn 1993 - 2005 61
Bảng 2.2 Kết quả chủ yếu giai đoạn 1993 - 2005 68
Bảng 3.1 Kết quả đạt được qua các chỉ tiêu chủ yếu giai
đoạn 2005 - 2015
102
Bảng 4.1 Tổng hợp hoạt động du lịch tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu 122
Bảng phục lục 1 Tổng hợp hoạt động du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 171
Phụ lục 2 Di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 174
Phụ lục 3 Thắng cảnh thiên nhiên tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 178
Phụ lục 4 Làng nghề tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 181
Phụ lục 5 Lễ hội truyền thống tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 183
Phụ lục 6 Phỏng vấn một số nhân chứng về chỉ đạo, quản lý
kinh tế du trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
186
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Khi xã hội càng phát triển, thì du lịch càng trở thành một ngành kinh
tế quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Những lợi ích
mà ngành kinh tế du lịch mang lại là vô cùng to lớn, không chỉ dưới góc
độ đóng góp vào GDP của đất nước hay giải quyết các vấn đề thất nghiệp,
xoá đói giảm nghèo, mà còn là phương thức để kết nối - giao lưu văn hóa,
quảng bá hình ảnh đất nước, con người tới đông đảo bạn bè trong khu vực
và trên thế giới.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960, ngành Du lịch đã ra đời, đánh
dấu nhận thức quan trọng của Đảng ta về triển vọng của một “ngành công
nghiệp không khói” này. Trong gần 60 năm qua, đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế, Du lịch Việt Nam nhanh chóng phát triển vượt bậc,
thu hẹp khoảng cách về phát triển du lịch với các nước trong khu vực; ngày
càng khẳng định vị trí, vai trò là “động lực để phát triển kinh tế” trong nền
kinh tế quốc dân.
Trên thực tế, nhận thức về tầm quan trọng của ngành kinh tế du lịch đã
được nâng lên không chỉ ở tầm vĩ mô mà đến mọi cấp, mọi ngành và cộng
đồng cơ sở. Các chủ trương của Đảng định hướng du lịch “trở thành một
ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội” [41,
tr.178], góp phần quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; tạo ra những bước phát triển mới, đem lại nhiều lợi ích thiết thực
cho cộng đồng, xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, du lịch Việt Nam vẫn
đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập khiến sự phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Mặc khác, vẫn còn thiếu chính sách quốc
gia phù hợp để du lịch phát triển theo đúng tính chất của một ngành kinh tế vận
hành theo quy luật thị trường. Bên cạnh đó, công tác quản lý Nhà nước thiếu
2
chặt chẽ; chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước
cũng như ở từng vùng, từng địa phương chưa hoàn thiện. Một số cấp ủy, chính
quyền các cấp, các ngành và một bộ phận người dân vẫn chưa nhận thức đầy
đủ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của ngành kinh tế du lịch.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ lâu đã được biết đến và nổi tiếng là một
trong những điểm đến du lịch hấp dẫn của cả nước với nhiều tiềm năng phát
triển phong phú các loại hình du lịch: văn hóa, sinh thái, nghỉ dưỡng, tắm
biển, thăm quan thắng cảnh biển - đảo và các di tích lịch sử văn hóa. Năm
1993, trong Nghị quyết (số 45; NQ/CP) về đổi mới quản lý và phát triển du
lịch của Chính phủ, tỉnh “Bà Rịa - Vũng Tàu đã được xác định là một trong
ba vùng du lịch trọng điểm của cả nước cần phải tiến hành việc lập quy hoạch
tổng thể”. Theo đó, Tổng cục Du lịch xác định, Bà Rịa - Vũng Tàu là một
trong 7 khu vực trọng điểm du lịch của toàn ngành; là một địa bàn du lịch
quan trọng trong hệ thống các tuyến điểm của vùng du lịch Nam Bộ.
Nhận thức rõ đặc điểm và tiềm năng, lợi thế của địa phương, ngay sau
khi được thành lập tỉnh (1991), Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã xác định rõ du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời, sớm đặt ra yêu cầu: “Quy
hoạch và đầu tư phát triển mạnh ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn
của kinh tế địa phương” [45, tr.47].
Tuy nhiên, so với lợi thế và tiềm năng thì kinh tế du lịch của tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu vẫn chưa thật sự mang lại hiệu quả cao trong mỗi giai đoạn,
chưa đáp ứng đúng vai trò là “đòn bẩy” thúc đẩy sự phát triển của các ngành
kinh tế khác. Nhiều lĩnh vực trong phát triển kinh tế du lịch còn bộc lộ hạn
chế, yếu kém. Vì vậy, việc tổng kết thực tiễn trong từng giai đoạn, từng mô
hình cụ thể, để rút ra những kinh nghiệm cho quá trình phát triển kinh tế du
lịch tiếp theo là việc làm hết sức cần thiết.
3
Xuất phát từ thực tế nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến
năm 2015” làm luận án tiến sĩ. Một mặt, để tập dượt nghiên cứu khoa học;
mặt khác, mong được đóng góp xác đáng những luận cứ khoa học về quá
trình Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của một địa phương, cụ thể là
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ góc nhìn lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát
triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015, góp phần cung cấp cơ sở
khoa học cho việc định hướng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống, khái quát hóa những chủ trương về phát triển du lịch của
Đảng, của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 1991 đến năm 2015.
- Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015.
- Luận giải quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, chỉ đạo phát
triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015.
- Nhận xét đánh giá, làm rõ những ưu điểm và hạn chế về những hạn
chế; rút ra các nguyên nhân; đúc kết những kinh nghiệm của quá trình Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch giai đoạn từ năm
1991 đến năm 2015.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương, chính sách và sự chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ
năm 1991 đến năm 2015.
4
- Hoạt động lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu từ năm 1991 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo về phát triển kinh tế du lịch: Quản lý Nhà nước về du
lịch; Thu hút đầu tư và sử dụng vốn; Đào tạo nguồn nhân lực; Xúc tiến, quảng
bá, liên kết, hợp tác, đa dạng hoá thị trường du lịch và sản phẩm du lịch; Cơ
sở vật chất, hạ tầng phát triển kinh tế du lịch.
- Về không gian nghiên cứu: Địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; đánh giá
mức độ phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong không
gian chung của vùng.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 1991, là năm thành lập tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu, đến năm 2015 là kết thúc nhiệm kỳ thứ V Đại hội Đảng bộ tỉnh.
4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế du lịch nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án là công trình nghiên cứu lịch sử, tác giả tuân thủ nguyên tắc
phương pháp luận về phương pháp lịch sử và phương pháp logic, kết hợp duy
vật lịch sử với duy vật biện chứng; đồng thời, sử dụng một số phương pháp
khác, như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, phỏng vấn, tổng kết để làm
sáng tỏ các nội dung nghiên cứu.
4.3. Nguồn tư liệu
- Các văn kiện, nghị quyết, chính sách, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng và
Nhà nước; các văn bản của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, của Tổng cục
Du lịch về phát triển kinh tế, kinh tế du lịch trong thời kỳ đổi mới.
5
- Các văn kiện, nghị quyết, quyết định, báo cáo; các đề án, quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch vùng kinh tế; các tài liệu biên
bản hội nghị, hội thảo… của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế du
lịch được lưu trữ tại các phông lưu trữ của tỉnh.
- Các sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả
trong và ngoài nước được xuất bản, công bố trên các tạp chí chuyên ngành;
các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ có liên quan đến đề tài Luận án.
- Các dữ kiện, số liệu thu thập thông qua phỏng vấn thực tế…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận án là công trình nghiên cứu lịch sử được xây dựng từ các nguồn
tư liệu phong phú, tin cậy, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
về phát triển kinh tế du lịch giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2015.
- Các luận chứng được rút ra đều dựa trên thực tiễn sinh động quá trình
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vận dụng chủ trương của Đảng về phát triển
kinh tế du lịch vào điều kiện cụ thể của địa phương, làm sáng tỏ vị trí, vai trò
của ngành kinh tế du lịch trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá khách quan, khoa học quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015, góp
phần tổng kết thực tiễn, tìm ra nguyên nhân thành công và hạn chế, trong quá
trình phát triển kinh tế du lịch từ ngành kinh tế quan trọng, trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Làm rõ hơn những yêu cầu thực tiễn, những vấn đề cần phải giải đáp
trong quá trình lãnh đạo của Đảng nói chung và của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu nói riêng về phát triển kinh tế du lịch hiện nay từ góc nhìn lịch sử.
6
6. Những đóng góp khoa học của luận án
- Góp phần hệ thống hóa khách quan nguồn sử liệu thuộc lĩnh vực
Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Phân tích, đánh giá khách quan những kết quả đạt được, rút ra những
nhận xét khoa học và đúc kết những kinh nghiệm góp phần làm phong phú thêm
lý luận lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng trên một lĩnh vực, một ngành, cụ thể
là ngành du lịch trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Luận án là nguồn tài liệu tốt, tin cậy phục vụ công tác nghiên cứu biên
soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh; lịch sử phát triển của ngành du lịch; đồng thời, là tài
liệu tham khảo của học viên và các nghiên cứu sau này.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 150 trang nội dung, với phần mở đầu; 4 chương, 10 tiết
và kết luận. Để đảm bảo tính khoa học và làm sáng tỏ hơn các nội dung
nghiên cứu, luận án có phần danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công
trình của tác giả đã được công bố và các bảng phụ lục kèm theo.
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các nghiên cứu chung về phát triển du lịch và kinh tế du lịch
ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu trên phạm vi cả nước đã được công bố liên
quan đến đề tài rất phong phú và đa dạng. Tiêu biểu là:
Cuốn sách Du lịch và kinh doanh du lịch của Trần Nhạn [68], giới thiệu
khái quát lý luận chung về du lịch và những hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực du lịch. Trong đó, tác giả tập trung nêu rõ tính chất, đặc điểm và những
nội dung về kinh doanh du lịch, được coi là bộ phận của thị trường chung
trong nền kinh tế; là phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du
lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua với người bán, giữa
cung với cầu và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật gắn với
mối quan hệ đó trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Kinh doanh du lịch sẽ làm
cho kinh tế du lịch phát triển năng động, toàn diện; làm cân bằng giữa cung -
cầu và mang lại hiệu quả trong nền kinh tế chung.
Cuốn Di tích Lịch sử - Văn hóa và danh thắng Việt Nam của Dương Văn
Sáu [77], là công trình giới thiệu những Di tích Lịch sử - Văn hóa và danh
thắng tiêu biểu của nước ta, cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ sở, cơ
bản nhất về hệ thống di tích lịch sử - văn hóa Việt Nam. Điều đặc biệt là, thông
qua nội dung cuốn sách, giúp cho những người mới bắt đầu tiếp cận lĩnh vực
nghiên cứu hiểu rõ hơn về kho tàng di sản văn hóa quý giá của dân tộc, từ đó
có cái nhìn sâu sắc về sự giàu có trong di sản văn hóa Việt Nam; nâng cao kiến
thức, hiểu biết về cách quản lý, bảo tồn và khai thác các giá trị của Di tích Lịch
sử - Văn hóa và danh thắng cảnh. Cuốn sách cũng góp phần cung cấp cho các
8
nhà lãnh đạo, quản lý có thêm sự nhìn nhận, đánh giá để hoạch định chính
sách trong quá trình phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng và giá trị quý
báu của các di tích và thắng cảnh.
Cuốn sách Thị trường du lịch của Nguyễn Văn Lưu [67], trình bày
những kiến thức cơ bản, cốt lõi về bản chất, đặc điểm, chức năng và các loại
hình thị trường du lịch. Nhất là mối quan hệ cung - cầu và các mối quan hệ
thông tin kinh tế - kỹ thuật gắn với quan hệ cung - cầu trên thị trường du lịch.
Đây là những kiến thức cơ bản, rất cần thiết đối với các chủ doanh nghiệp,
các nhà đầu tư, các nhà hoạch định chính sách, cán bộ quản lý nhà nước trong
lĩnh vực du lịch. Thông qua phân tích hai yếu tố quan trọng của thị trường du
lịch là cung và cầu, tác giả đã chỉ ra: Du lịch Việt Nam đang đứng trước nhu
cầu lớn của khách nước ngoài và nhân dân trong nước, khách hàng có sẵn.
Thị trường du lịch nội địa của Việt Nam trong tương lai cũng phát triển mạnh
với tốc độ tăng trưởng cao và chứa đựng các yếu tố bền vững, được coi là thị
trường năng động, phong phú và đem lại hiệu quả cao trong nền kinh tế.
Cuốn Quy hoạch Du lịch của Bùi Thị Hải Yến [165], trình bày tổng
quan những vấn đề lý luận và thực tiễn quy hoạch phát triển du lịch trên thế
giới và Việt Nam. Tác giả đã hệ thống và nêu bật các nhiệm vụ quy hoạch du
lịch, trong đó cần chú trọng quy hoạch các dự án, các chương trình, kế hoạch
phát triển phù hợp với từng địa phương, từng vùng, phù hợp với tổng thể
trong quy hoạch chung của cả nước. Mục tiêu của quy hoạch phải đạt được
tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu khai thác, tôn tạo và phát huy các nguồn
lực phát triển du lịch đem lại hiệu quả kinh tế, phù hợp với cảnh quan, môi
trường và góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển bền vững. Bên cạnh đó,
tác giả cũng chỉ ra trên thực tế, những địa phương nào quan tâm đầu tư cho
việc lập và thực hiện quy hoạch hợp lý thì phát triển kinh tế du lịch hiệu quả,
bền vững cả về môi trường cũng như đời sống, xã hội. Tác giả khuyến nghị,
cần có kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp công tác quy hoạch; đồng thời,
9
khai thác có hiệu quả các kết quả quy hoạch đã được phê duyệt và triển khai
trong thực tế để phát huy các giá trị khoa học trong quy hoạch, đẩy mạnh phát
triển du lịch góp phần vào phát triển KT-XH của đất nước và địa phương.
Cuốn Tài nguyên du lịch của Bùi Thị Hải Yến, Phạm Hồng Long [166],
đề cập đến những vấn đề lý luận và bức tranh chung về tài nguyên du lịch của
Việt Nam. Trong đó đánh giá rõ tiềm năng tài nguyên du lịch của từng vùng,
từng địa phương trong không gian chung cả nước; Tác giả không chỉ nêu bật
những thông tin về tài nguyên du lịch của đất nước mà còn đề xuất về quan
điểm và hành động đúng đắn hơn trong việc quản lý, khai thác, bảo vệ tôn tạo
tài nguyên - môi trường du lịch của đất nước theo hướng tiết kiệm, bền vững,
không vì kinh tế trước mắt mà lãng phí, hủy hoại tài nguyên môi trường.
Cuốn Địa lý du lịch Việt Nam là công trình nghiên cứu của Nguyễn
Minh Tuệ và các cộng sự [132], trình bày những nội dung liên quan đến tổng
quan cơ sở lý luận về Địa lý du lịch và Địa lý du lịch Việt Nam. Bằng hệ
thống kiến thức cơ bản, cập nhật và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, các tác
giả đã phác họa được bức tranh tổng quan về địa lý du lịch của cả nước, giúp
cho người đọc có điều kiện hiểu rõ hơn về những nội dung liên quan đến Địa
lý du lịch và Địa lý du lịch Việt Nam. Bên cạnh những kiến thức cần thiết và
một số hình ảnh minh họa cụ thể về một đối tượng du lịch được trích dẫn từ
các nguồn khác nhau đã thu hút độc giả quan tâm đến một lĩnh vực đang phát
triển trong nền kinh tế, đó là kinh tế du lịch.
Cuốn: Tâm lý và nghệ thuật giao tiếp, ứng xử trong kinh doanh du lịch
của Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh [46], trình bày khá rõ nét những
nội dung cơ bản về tâm lý học xã hội trong du lịch, tâm lý khách du lịch, tâm
lý người phục vụ và những vấn đề lý luận cơ bản về giao tiếp, nghệ thuật giao
tiếp, ứng xử nâng cao chất lượng trong kinh doanh du lịch. Thông qua đó, các
tác giả cũng cho thấy những bất cập, hạn chế hiện nay trong giao tiếp ứng xử
của các đối tượng tham gia kinh doanh du lịch, làm ảnh hưởng không nhỏ đến
10
chất lượng trong các loại hình du lịch và hình ảnh đất nước, con người Việt
Nam, là những nội dung cần sớm được khắc phục. Các tác giả cũng đưa ra
các khuyến nghị cần tổ chức tốt các khóa đào tạo, giúp cho nguồn nhân lực
làm công tác kinh doanh du lịch có đủ kỹ năng, phẩm chất để tham gia trong
quá trình phát triển, hội nhập.
Cuốn sách: Du lịch cộng đồng của nhóm tác giả Bùi Thị Hải Yến và
các cộng sự [167], trình bày khái quát những vấn đề lý luận, thực tiễn
chung về phát triển du lịch cộng đồng; đồng thời, nêu rõ các nguồn lực cho
phát triển loại hình du lịch này ở Việt Nam. Công trình cung cấp những
thông tin bổ ích về những quan điểm, hoạt động du lịch cộng đồng, phát
triển cộng đồng, bảo vệ các nguồn tài nguyên môi trường du lịch của đất
nước theo hướng bền vững. Công trình giúp người đọc hiểu cặn kẽ hơn vai
trò của cộng đồng trong quá trình phát triển du lịch và tham gia các hoạt
động phát triển kinh tế du lịch.
Cuốn: Ứng sử văn hóa trong du lịch của Trần Thuý Anh và các cộng
sự [2], giới thiệu những kiến thức nền, phương pháp tiếp cận và ứng xử văn
hoá, những cách thức triển khai nghiệp vụ du lịch. Cuốn sách vừa khái quát
vừa nêu những vấn đề cụ thể, giúp cho người đọc nhìn nhận và tự hình thành
nhân cách, tư duy tích cực, để có thái độ ứng xử đúng đắn trước tự nhiên và
xã hội. Qua đó, mỗi người đều có trách nhiệm xây dựng nền du dịch văn hóa
của đất nước và của từng địa phương.
Cuốn sách: Kinh tế Du lịch của Vũ Mạnh Hà [52], được tác giả đề cập
đến những vấn đề có tính chuyên ngành, như: Sự ra đời và phát triển của môn
kinh tế du lịch, phương pháp luận nghiên cứu kinh tế du lịch; phương pháp
tiếp cận hệ thống và phương pháp thống kê; những biến số kinh tế cơ bản của
ngành du lịch như cung - cầu du lịch, đầu tư du lịch... Qua đó, giúp cho các
đối tượng tham gia vào thị trường du lịch có thể nhận thức một cách định
lượng mối tác động qua lại giữa ngành du lịch và kinh tế du lịch, kinh doanh,
11
hoạch định chiến lược phát triển du lịch một quốc gia với yêu cầu đặt trong
chiến lược phát triển chung của cả nền kinh tế. Cuốn sách cung cấp những
kiến thức nền tảng với nhiều lý thuyết khác nhau và những kiến thức cơ bản
về: loại hình du lịch, các lĩnh vực kinh doanh du lịch, điều kiện để phát triển
du lịch, lao động trong du lịch, hiệu quả kinh doanh du lịch; quy hoạch phát
triển du lịch; tổ chức và quản lý ngành du lịch...
Cuốn sách: Văn hóa Du lịch của Hoàng Văn Thành [97], khác với các
công trình nghiên cứu về Du Lịch Văn hóa, tác giả đã tập trung trình bày các
khái niệm cơ bản về văn hóa du lịch, nêu bật sự khác nhau giữa văn hóa du lịch
và du lịch văn hóa. Một bên là tính văn hóa trong các hoạt động du lịch; một
bên là loại hình du lịch dựa trên khai thác từ các sản phẩm văn hóa. Qua đó,
các tác giả nêu bật vai trò của văn hóa du lịch trong kinh doanh du lịch; phác
họa bức tranh khá sinh động một số vấn đề về văn hóa du lịch Việt Nam, giới
thiệu các sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng của Việt Nam, trang bị cho những
người làm du lịch những kiến thức cơ bản, để nâng cao hiệu quả của hoạt động
du lịch Việt Nam.
Cuốn sách: Du Lịch Việt Nam thời kỳ đổi mới là công trình nghiên cứu
khoa học của nhóm tác giả Trần Thị Minh Hoà và các cộng sự [56], đã tập
trung trình bày những nội dung về các nguồn lực của du lịch Việt Nam, bối
cảnh và sự phát triển của du lịch Việt Nam trước và sau khi thực hiện công
cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, là quá trình phát triển nhanh chóng, đáp
ứng nhu cầu của xã hội, bắt nhịp với xu thế phát triển du lịch của thế giới. Từ
những nghiên cứu thực tiễn, nhóm tác giả đã đánh giá bước đầu thực trạng và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong phát triển của ngành Du lịch
nước ta, nhất là các hoạt động du lịch mang tính tự phát. Các tác giả cũng đưa
ra những viễn cảnh và định hướng, giải pháp phát triển của du lịch Việt Nam
trong giai đoạn tiếp theo của thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Bên cạnh các công trình là sách, nhiều công trình là luận án, luận văn,
12
kỷ yếu hội thảo đã được bảo vệ thành công, tiêu biểu là:
Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam
thành ngành kinh tế mũi nhọn của Vũ Đình Thụy [112], góp phần hệ thống
hoá cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
trong nền kinh tế quốc dân; đánh giá những vấn đề tồn tại và nguyên nhân sâu
xa của những khiếm khuyết trong phát triển du lịch Việt Nam; phân tích
những điều kiện chủ yếu để du lịch phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn;
đề ra các định hướng, giải pháp nhằm thực hiện thành công chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế du lịch Việt Nam, xây
dựng ngành du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp hiệu quả,
thiết thực trong nền kinh tế quốc dân.
Những giải pháp phát triển du lịch sinh thái Việt Nam trong xu thế hội
nhập của Nguyễn Thị Tú [130], với nội dung là tìm ra những giải pháp đồng
bộ góp phần phát triển du lịch sinh thái Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế. Đây là một loại hình du lịch đang được ưa chuộng không chỉ
thu hút khách du lịch mà còn tạo ra một môi trường du lịch hướng tới phát
triển bền vững. Tác giả đã đưa ra các khái niệm, các quan điểm về phát triển
du lịch sinh thái; tập trung phân tích làm rõ đặc điểm, vai trò, yêu cầu và
những nội dung cơ bản phát triển du lịch sinh thái; đánh giá và rút ra kết luận
chủ yếu về thực trạng phát triển du lịch sinh thái Việt Nam trong thời gian
qua. Luận án cho thấy bức tranh du lịch sinh thái Việt Nam phát triển chỉ mới
là bước đầu, còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế và bất cập. Một số giải pháp
được tác giả đề xuất nhằm phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong thời
gian tới, gắn với các loại hình du lịch văn hóa, biển, đảo,... là những giải pháp
mang tính khoa học, có giá trị thực tiễn cao.
Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam của Nguyễn Anh
Tuấn [131], nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh điểm đến
trong phát triển du lịch, phân tích rõ nội hàm của cạnh tranh du lịch và cạnh
13
tranh điểm đến của du lịch, cho thấy thực trạng năng lực cạnh tranh điểm đến
của du lịch Việt Nam hiện nay và những đòi hỏi mới trong tương lai. Tác giả
đã chỉ rõ những nguyên nhân hạn chế về năng lực cạnh tranh điểm đến của
ngành du lịch Việt Nam, nổi bật là hạn chế về năng lực, phẩm chất văn hóa của
các chủ thể tham gia trong quá trình hoạt động kinh doanh du lịch. Đồng thời,
đề xuất một số giải pháp cần quan tâm và tập trung nâng cao năng lực cạnh
tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam hiện nay.
Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông Á và gợi ý chính sách cho Việt
Nam của Nguyễn Trùng Khánh [62], nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản
liên quan đến việc phát triển dịch vụ lữ hành du lịch, khẳng định tính chất
dịch vụ thương mại của hoạt động lữ hành du lịch; các điều kiện phát triển
dịch vụ lữ hành du lịch, bao gồm về cung và cầu. Luận án tập trung nghiên
cứu, phân tích rõ các kinh nghiệm của một số nước: Trung Quốc, Malaixia và
Thái Lan về phát triển của dịch vụ lữ hành du lịch. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp cơ bản và kiến nghị về chính sách phát triển dịch vụ lữ hành du lịch cho
Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch thời kỳ
đổi mới (1986 - 2001) của Nguyễn Văn Tài [95], góp phần hệ thống hóa về
chủ trương của Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch thời kỳ đổi mới (1986
- 2001), làm rõ quá trình phát triển về lý luận của Đảng trong thời kỳ đổi mới
về phát triển kinh tế trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường và hội nhập,
trong đó kinh tế dịch vụ, đặc biệt là kinh tế du lịch, được coi là ngành “công
nghiệp không khói” mang lại hiệu quả lớn cho đất nước. Tác giả đã phân tích
rõ các yếu tố tác động đến việc hình thành chủ trương của Đảng lãnh đạo phát
triển kinh tế du lịch; phân tích, luận giải quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế
trong 15 năm kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới; những thành tựu, hạn
chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng và đúc kết được các kinh nghiệm có
14
giá trị khoa học về thực tiễn.
Các bài viết: Phát triển du lịch Việt Nam trong tình hình mới, của Võ
Thị Thắng [99]; Đô thị du lịch biển Việt Nam và những thách thức trên con
đường phát triển bền vững, của Nguyễn Thu Hạnh [53]; Phát triển du lịch
bền vững bảo vệ môi trường sinh thái, của Nguyễn Chu Hồi [58]; Xây dựng
thương hiệu du lịch biển Việt Nam, của Đỗ Cầm Thơ [100]; Phát triển du lịch
biển gắn với bảo vệ môi trường, của Vũ Thị Thoa [101]; Phát triển bền vững
cơ sở lưu trú du lịch vùng biển, đảo, của Nguyễn Thanh Bình [11]; Định vị du
lịch biển Việt Nam, của Phạm Trương Hoàng [57]; Phát triển kinh tế du lịch
biển Việt Nam trong thời kỳ hiện nay, của Hoàng Thị Điệp [45]; Phát triển
kinh tế du lịch biển - đảo gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh trong bối
cảnh hội nhập hiện nay, của Nguyễn Tuấn Dũng [30].... Các tác giả đã phân
tích những điều kiện giúp cho Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một nước
có thế mạnh về du lịch, nhất là du lịch sinh thái, tâm linh, biển, đảo. Phát triển
du lịch không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn góp phần làm lành
mạnh xã hội thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển; giữ vững chủ quyền
quốc gia, quốc phòng, an ninh, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao đời sống của
nhân dân các địa phương, nhất là các địa phương vùng ven biển, vùng núi. Để
phát triển kinh tế du lịch Việt Nam tương xứng với tiềm năng và thế mạnh,
các tác giả đều nêu cao tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, quảng bá,
xúc tiến du lịch, cho rằng cần phải được quan tâm đồng bộ và thiết thực hơn
nữa; đồng thời, để tạo ra sự khác biệt, nâng cao tính cạnh tranh sản phẩm du
lịch của mỗi vùng, mỗi địa phương cần tăng cường khai thác yếu tố văn hóa
bản địa phục vụ khách du lịch.
1.1.2. Các nghiên cứu về phát triển du lịch ở các địa phƣơng, cơ sở
Một số giải pháp hoàn thiện quản trị nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp du lịch trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh của Trần Thị Kim Dung
[28], nghiên cứu hệ thống lý luận quản trị nguồn nhân lực du lịch, làm cơ sở
15
khoa học cho việc tiếp tục phát triển và vận dụng lý luận quản trị nguồn nhân
lực vào điều kiện Việt Nam. Luận án khái quát tình hình phát triển, kinh
doanh du lịch; phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng quản trị nguồn nhân
lực trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; rút ra những
vấn đề tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế trong quản trị nguồn nhân
lực; đề xuất một số giải pháp căn bản hoạt động quản trị nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp du lịch của Thành phố.
Phương hướng và một số giải pháp để đa dạng hóa loại hình và sản
phẩm du lịch ở Quảng Nam - Đà Nẵng của Trương Sĩ Quý [75], hướng vào
nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản về đa dạng hóa loại hình
và sản phẩm du lịch. Trên cơ sở phân tích rõ những yêu cầu và căn cứ để xác
định phương hướng, mục tiêu cụ thể và các giải pháp về đa dạng hóa loại hình
du lịch, cũng như đa dạng hóa các dịch vụ, chương trình du lịch ở Quảng
Nam - Đà Nẵng trong thời tương lai.
Phát triển du lịch tỉnh An Giang đến năm 2020 của Mai Thị Ánh
Tuyết [134], nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch trong
bối cảnh toàn cầu hoá và nền kinh tế trí thức; những lý luận cơ bản về du
lịch, khái niệm, đặc tính của phát triển du lịch, các loại hình du lịch chủ
yếu... Từ đó, xác lập các nguyên tắc, tiêu chuẩn phát triển du lịch phù hợp
với bối cảnh phát triển du lịch An Giang. Tổng hợp những kinh nghiệm một
số nước trên thế giới thành công trong phát triển du lịch, liên hệ với thực
tiễn Việt Nam và cụ thể là tỉnh An Giang. Thông qua đánh giá tiềm năng và
thực trạng của ngành du lịch tỉnh An Giang, tác giả đề xuất những giải pháp
và kiến nghị nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch tỉnh An Giang phù hợp
và hiệu quả nhất.
Hoàn thiện quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
của Nguyễn Tấn Vinh [163], trình bày hệ thống hoá quản lý Nhà nước về
kinh tế du lịch, trong đó tập trung vào quản lý Nhà nước về du lịch; đánh giá
16
rõ thực trạng công tác quản lý du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Thông qua
kết quả phát triển du lịch, luận án rút ra những nguyên nhân, hạn chế, đề ra
phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch để đưa
ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh Lâm Đồng.
Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Trần
Xuân Ảnh [3], đã tập trung đánh giá thực trạng thị trường du lịch Quảng
Ninh, nêu bật được những thành tựu, đồng thời chỉ ra những hạn chế và
những nội dung cần khắc phục để mở rộng thị trường du lịch Quảng Ninh đến
năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Luận án đã đề xuất một số nhóm giải
pháp sát với yêu cầu thực tiễn nhằm phát triển thị trường du lịch trong thời
gian tới.
Phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan điểm phát triển bền vững
của La Nữ Ánh Vân [161], làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về phát triển du
lịch trên quan điểm phát triển bền vững (của thế giới và ở Việt Nam) để vận
dụng vào điều kiện cụ thể tỉnh Bình Thuận; tác giả phân tích và đánh giá rõ
những nhân tố ảnh hưởng, thực trạng và đề ra các giải pháp phù hợp phát triển
du lịch tỉnh Bình Thuận với quan điểm phát triển bền vững.
Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế
của Nguyễn Thị Hồng Lâm [65], góp phần hệ thống hóa lý luận về kinh tế du
lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế của một vùng du lịch ở Việt Nam dưới góc
độ kinh tế chính trị; phân tích làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế du lịch với sự
phát triển KT-XH và các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế trong hội nhập kinh
tế quốc tế; những thành tựu, hạn chế của kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, đề xuất phương hướng và giải pháp
thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
Ngoài ra còn các luận án tiến sĩ kinh tế, như: Nghiên cứu tiềm năng và
các giải pháp phát triển du lịch sinh thái tại một số trọng điểm vùng du lịch
17
Bắc Trung Bộ của Nguyễn Quyết Thắng [98], tập hợp và làm rõ cơ sở lý luận
về nghiên cứu tiềm năng và phát triển du lịch sinh thái và xác định vai trò, các
yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch sinh thái; kinh nghiệm nghiên cứu
tiềm năng và phát triển du lịch sinh thái của một số nước trên thế giới qua đó
rút ra một số bài học kinh nghiệm để vận dụng cho Việt Nam và cụ thể cho
vùng du lịch Bắc Trung Bộ; Phát triển du lịch sinh thái các tỉnh vùng duyên
hải cực Nam Trung Bộ đến năm 2020 của Đinh Kiệm [63], tác giả nghiên cứu
về địa lý kinh tế du lịch để hoạch định phân vùng tài nguyên, quy hoạch tổ
chức không gian du lịch sinh thái theo địa giới lãnh thổ vùng Duyên Hải cực
Nam Trung bộ; phân tích và đánh giá thực trạng phát triển du lịch sinh thái
đang diễn ra tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận... các luận văn thạc sĩ với
các đề tài: Kinh tế du lịch Thừa Thiên - Huế, tiềm năng và phương hướng phát
triển, luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hóa, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 1997. Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lãnh đạo phát triển du lịch từ
năm 2001 đến năm 2010, luận văn thạc sĩ lịch sử Đảng của Lê Trung Kiên, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2012. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo
phát triển Du lịch giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010, luận văn thạc sĩ của
Đoàn Hải Đăng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2014... Để du lịch
trở thành ngành kinh tế động lực trong phát triển KT-XH tỉnh Ninh Bình của
Trần Hữu Nam, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 184 (5-2011); Phát triển du
lịch bền vững từ thực tiễn của các tỉnh, thành phía Nam, Kỷ yếu hội thảo do
Tạp chí Cộng sản phối hợp Tỉnh uỷ Bình Phước tổ chức (2016)... đã góp phần
hệ thống hoá quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước; chủ trương của
Đảng bộ một số tỉnh về phát triển du lịch và lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch
trong thời kỳ đổi mới; đánh giá, phân tích những thành tựu, hạn chế, góp phần
làm sáng tỏ thêm quan điểm của Đảng về lãnh đạo phát triển du lịch; đề xuất
nhiều giải pháp và phương hướng phát triển du lịch nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế du lịch toàn diện và bền vững.
18
1.1.3. Những công trình nghiên cứu nƣớc ngoài
Cuốn Managing Tourism (Quản lý Du lịch), của tác S.Medlik [173], là
công trình nghiên cứu về cách thức tổ chức, quản lý du lịch. Tác giả đã làm rõ
các khái niệm về quản lý du lịch, sản phẩm du lịch; phân tích rõ hơn nội hàm về
sự quảng bá các sản phẩm và điểm đến du lịch; sự quản lý và tổ chức các hoạt
động đối với ngành du lịch. Tác giả cho rằng nếu không được quản lý chặt chẽ
thì du lịch không chỉ không mang lại hiệu quả kinh tế mà còn bị nhiều tác động
xấu về mặt xã hội, an ninh - quốc phòng.
Công trình Marketing and Managing Tourism Destinations (Tiếp thị và
quản lý điểm đến) của Alastair M. Morrison [168] đã tập trung vào cách thức
tiếp thị điểm đến bắt đầu từ kế hoạch, thực hiện, đánh giá cũng như việc quản
lý hoạt động của tiếp thị điểm đến và quản lý các tổ chức, cách thức tiến hành
kinh doanh, những cơ hội, thách thức và các vấn đề họ phải đối mặt với cạnh
tranh cho giải trí và kinh doanh du lịch trong nền thị trường toàn cầu.
Công trình Tourism Management (Quản lý du lịch) do hai tác giả David
Weaver và Laura Lawtonn [169], tập trung giải thích nguyên nhân vì sao quản
lý du lịch lại phức tạp và luôn khó khăn, qua đó đưa ra những cách thích ứng
với yêu cầu về các lĩnh vực du lịch và dịch vụ, nhằm quản lý du lịch một cách
tích cực và bền vững trên tất cả các mặt: kinh tế, sinh thái, xã hội và văn hóa.
Ngoài ra, một số công trình giải thích phạm trù phản ánh về hiện tượng
hoạt động về kinh doanh, dịch vụ du lịch, các bộ phận cấu thành và các hình
thức dịch vụ du lịch, quan hệ cung - cầu và cơ chế vận hành hoạt động kinh
doanh du lịch, như: Global Tourism - The next decade (Du lịch toàn cầu - Thập
kỷ tới) của William Theobald [175]; Leisure and Tourism (Giải trí và Du lịch)
của các tác giả John Ward, Phil Higson và William Campbell [172];
Commercial Recreation & Tourism - An Introduction to Business Oriented
Recreation" (Giải trí Thương mại và Du lịch - Sự giới thiệu về giải trí định
hướng kinh doanh), của tác giả Susan A.Weston [174],…
19
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu khác về du lịch của các tác giả
nước ngoài được dịch ra tiếng Việt cũng là những tài liệu tham khảo có ý
nghĩa trong nghiên cứu, tiêu biểu như:
Cuốn sách Kinh tế du lịch của tác giả Robert Lanquar [175], là công
trình nghiên cứu tổng hợp những kỹ thuật và phương tiện của kinh tế học du
lịch. Tác giả đưa ra những khái niệm mới về kinh tế du lịch; nêu những biến
số cơ bản của kinh tế du lịch (yêu cầu, tiêu thụ, sản xuất, đầu tư); những công
cụ và phương tiện phân tích tổng thể lĩnh vực du lịch; đi sâu vào xí nghiệp du
lịch và xem xét sự quản lý kinh tế và tài chính từ sự đánh giá kinh tế một dự
án du lịch cho đến việc quy định các chỉ tiêu kinh tế về lời lãi. Đồng thời, tác
giả cuốn sách đã giới thiệu những vấn đề về tình hình và ảnh hưởng của du
lịch đến nền kinh tế; những yêu cầu về tiến hành du lịch, sự tiêu dùng của du
lịch, sản xuất và đầu tư du lịch, nhằm biến các tài nguyên nhân lực, tư bản và
nguyên liệu thành dịch vụ và sản phẩm phục vụ con người.
Cuốn Quy hoạch Du lịch của tác giả G.Cazes - R.Lanquar - Y.
Raynouard, người dịch Phạm Ngọc Uyển, Bùi Ngọc Chưởng [170], giới thiệu
cột mốc lịch sử của công nghiệp du lịch và đi sâu phân tích những ảnh hưởng
của du lịch đến kinh tế, nghiên cứu về vai trò và tầm quan trọng trong công
tác quy hoạch du lịch; trình bày các yếu tố cần thiết trong quy hoạch; phân
tích các loại cơ sở du lịch khác nhau ở ba môi trường tự nhiên đặc thù là: các
dải ven biển, nơi hoạt động du lịch tắm biển; du lịch miền núi và du lịch trong
môi trường nông thôn và ven đô. Tác giả cũng phân tích và làm sáng tỏ một
số phương pháp quy hoạch du lịch được sử dụng trên thế giới, giúp người đọc
nhận thức rõ, hiểu hơn về chiến lược quy hoạch du lịch.
Cuốn sách Kinh tế du lịch và Du lịch học của các tác giả Đổng Ngọc
Minh, Vương Lôi Đình cùng với tập thể giáo sư và giảng viên khoa Du lịch
Đại học Hải Dương, Thanh Đảo (Trung Quốc) hợp soạn [69], được Nxb. Trẻ
dịch và đã đưa về Việt Nam năm 2000. Đây là công trình nghiên cứu khoa
20
học có hệ thống về hoạt động du lịch từ thực tiễn của Trung Quốc, nêu lên
nhiều mặt phù hợp với điều kiện hoạt động du lịch Việt Nam, từ đó có thể rút
ra được những bài học, kinh nghiệm để đưa du lịch Việt Nam phát triển theo
đúng chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Nhiều nội dung nghiên cứu của các công trình là “cẩm nang” du lịch cho các
đối tượng quan tâm và cũng là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chủ
trương, chính sách và các nhà quản lý du lịch. Các công trình là nguồn tài liệu
rất cần thiết cho việc nghiên cứu luận án của nghiên cứu sinh.
1.1.4. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến du lịch và kinh tế
du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Cuốn sách Di tích, danh thắng Bà Rịa - Vũng Tàu của Bảo tàng tổng
hợp Bà Rịa - Vũng Tàu [10], là công trình nghiên cứu tổng hợp về các di tích
lịch sử, danh lam, thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nội dung
cuốn sách cũng khẳng định các giá trị văn hóa, lịch sử trường tồn trong đời
sống, xã hội là niềm tự hào không chỉ của Đảng bộ và nhân dân Bà Rịa -
Vũng Tàu mà còn là niềm tự hào của cả nước với tư cách Bà Rịa - Vũng Tàu
là điểm đến du lịch thân thiện của cả nước. Thông qua nội dung cuốn sách,
tác giả đã giới thiệu, quảng bá những di tích lịch sử, danh lam, thắng cảnh
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tới du khách trong nước và quốc tế.
Cuốn Sắc màu du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu của Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu [86]. Nội dung của cuốn sách giới thiệu với du khách về các địa
điểm du lịch, các sản phẩm du lịch, các loại hình du lịch hấp dẫn ở Bà Rịa -
Vũng Tàu. Đây cũng là hoạt động truyền thông, quảng bá sức hấp dẫn của
điểm đến và sản phẩm, dịch vụ du lịch cụ thể của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
góp phần thực hiện mục đích nâng cao nhận thức của những người tham gia
vào chuỗi cung cấp các dịch vụ của ngành du lịch, của cộng đồng dân cư tại
điểm đến. Thu hút nhân lực làm du lịch chuyên nghiệp, cộng đồng dân cư
thân thiện, hiếu khách, tạo ấn tượng, sự thiện cảm và hài lòng cho du khách
21
đến với địa phương; nâng cao nhận thức, tạo dựng hình ảnh du khách Việt
văn minh, lịch sự khi đi du lịch trong và ngoài nước.
Cuốn Bà Rịa - Vũng Tàu Festival Biển 2006 - Du lịch và cơ hội đầu tư
của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
[70], giới thiệu, quảng bá đến các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, những thông
tin về du lịch, các lĩnh vực hợp tác kinh tế và thu hút đầu tư phát triển du lịch
tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Cuốn sách cũng nêu rõ quan điểm của Đảng đối
với phát triển du lịch biển được cụ thể hóa trong giai đoạn phát triển mới của
kinh tế du lịch, là “ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước” và phát triển kinh tế du lịch biển là một hướng quan
trọng trong phát triển kinh tế - du lịch nói chung, góp phần thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu nêu trên, các cuốn sách và công
trình nghiên cứu lịch sử của Đảng bộ các cấp và một số ngành cũng là những
tài liệu quan trọng. Tiêu biểu như cuốn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, Tập 3, giai đoạn 1975 - 2010 [8]; Lịch sử Đảng bộ thành phố Vũng Tàu
giai đoạn 1930 - 2005, của Đảng bộ thành phố Vũng Tàu, 2005; Lịch sử đấu
tranh cách mạng của Đảng bộ, quân và dân thành phố Bà Rịa (1930 - 2000),
Đảng bộ thành phố Bà Rịa, 2000; Lịch sử Đảng bộ huyện Xuyên Mộc (1930 -
2005), Đảng bộ huyện Xuyên Mộc, 2000; Lịch sử Đảng bộ huyện Long Điền
(1930 - 2005), Đảng bộ huyện Long Điền, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2007;
Lịch sử Đảng bộ huyện Đất Đỏ (1930 - 2008), Nxb. Tổng hợp Đồng Nai,
2009; Lịch sử Đảng bộ huyện Côn Đảo (1975 - 2005), Đảng bộ huyện Côn
Đảo (2010); Bà Rịa - Vũng Tàu 20 năm xây dựng và phát triển (1991 - 2011),
của Thư viện tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2011... là những tài liệu lịch sử quan
trọng ghi lại quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, đảng bộ các huyện trong
giai đoạn cách mạng sôi động giành độc lập, xây dựng đất nước. Đó là những
hoạt động của Đảng bộ, gắn với thực tiễn đầy sáng tạo, tận dụng tiềm năng,
22
lợi thế để phát triển. Trong đó, thể hiện rõ, Bà Rịa - Tàu là điểm đến tin cậy,
hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước.
Một số công trình là luận văn, luận án, sách, kỷ yếu hội thảo và các bài
báo khoa học cũng rất phong phú và đa dạng:
Phát triển Du lịch bền vững Bà Rịa - Vũng Tàu của Vũ Văn Đông [49],
góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và kinh nghiệm phát triển du lịch bền
vững; đánh giá thực trạng về phát triển du lịch bền vững Bà Rịa - Vũng Tàu;
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phát triển du lịch bền vững
của Bà Rịa - Vũng Tàu; đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển bền
vững du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển du lịch từ năm
2001 đến năm 2012 của Nguyễn Thị Hiền [55], bước đầu hệ thống hóa quan
điểm, chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về lãnh đạo phát
triển du lịch; đánh giá một số thành tựu, hạn chế trong quá trình Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển du lịch trong giai đoạn hơn 10 năm từ
2001 đến 2012.
Các công trình đăng trên các tạp chí khoa học và kỷ yếu hội thảo gồm:
Bài viết Ngành du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu ba năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ III của Nguyễn Trọng Tín [114], đã tập trung
phân tích những yếu tố tác động đến sự phát triển mạnh của ngành Du lịch
trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh. Qua
đó, cho thấy du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu luôn nhận được sự động viên, chỉ đạo
sát sao của Tỉnh uỷ, của Trung ương, sự hỗ trợ toàn diện của các ban ngành,
đoàn thể địa phương. Công tác quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật
chất đã tạo nên một bước chuyển mới trong hoạt động du lịch, dịch vụ; công
tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được quan tâm đẩy mạnh; mục
tiêu ngành du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2005 được tập trung là xây
dựng ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
23
Bài: Chính sách phát triển kinh tế ven biển và hải đảo tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, thực trạng và vấn đề đặt ra của Lê Thanh Sơn [79], phân tích,
đánh giá vùng ven biển và hải đảo Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều tiềm năng để
phát triển kinh tế, nhất là công nghiệp phụ trợ phục vụ các ngành: dầu khí,
đóng tàu, thuỷ sản và dịch vụ du lịch... Trên cơ sở đặc điểm riêng của từng
địa phương để đầu tư phát triển du lịch biển. Tuy nhiên, chính sách khai thác
tiềm năng và các lợi thế phát triển ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: Chính sách còn thiếu thống nhất,
chưa đồng bộ; công tác phối hợp liên ngành còn chồng chéo, chưa đồng nhất;
công tác hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ vay vốn đầu tư còn lúng túng; hiệu quả các
chính sách phát triển kinh tế ven biển còn thấp, chưa phát huy lợi thế về tính
mũi nhọn như dầu khí, du lịch, cảng biển, thuỷ sản.
Bài: Côn Đảo với mục tiêu trở thành khu kinh tế du lịch - dịch vụ chất
lượng cao của Hoàng Nghĩa Doãn [27], phân tích tầm quan trọng của các giá trị
lịch sử và tiềm năng thiên nhiên biển, đảo cần được phát huy trong quá trình phát
triển kinh tế biển, đảo. Qua đó, giúp cho Đảng bộ huyện Côn Đảo xác định rõ
hơn trong các chủ trương về xây dựng Côn Đảo trở thành khu kinh tế du lịch và
dịch vụ đạt chuẩn quốc tế; phát triển du lịch bền vững làm nền tảng cho khu kinh
tế du lịch - dịch vụ chất lượng cao. Tuy nhiên, bài viết cũng cho thấy, Côn Đảo
còn những khó khăn nhất định, nhất là tình hình sản xuất và cung ứng điện,
nước, giao thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh và du
lịch, nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng KT-XH chưa đồng bộ, đòi hỏi Đảng bộ
huyện và tỉnh phải có những mục tiêu, nhiệm vụ đột phá, phù hợp với thực tế
của địa phương.
Bài Phát triển Văn hóa, Du lịch - thế mạnh của Bà Rịa - Vũng Tàu của
Minh Chính [24]; Bà Rịa - Vũng Tàu phát huy lợi thế, tập trung phát triển tốt các
ngành du lịch của Trần Minh Sanh [76]; Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu năm 2012 và
triển vọng năm 2013, của Vũ Văn Đông [48]; Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu và một
24
số định hướng phát triển của Tạ Việt Thắng [98]; Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
tiềm năng và thực trạng phát triển, của Nguyễn Lan Hương [59]...
Đề: Nghiên cứu giải pháp đầu tư và khai thác tiềm năng văn hóa phục
vụ du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do Phạm Quang Khải, làm chủ nhiệm [61],
đã tập trung phân tích các vấn đề: tình hình phát triển du lịch ở Bà Rịa - Vũng
Tàu; tiềm năng và hiện trạng khai thác văn hóa phục vụ phát triển du lịch;
hướng dẫn đầu tư và khai thác tiềm năng du lịch văn hóa ở Bà Rịa - Vũng
Tàu... Trên cơ sở đó, xây dựng một số mô hình nhằm đầu tư, khai thác tiềm
năng văn hóa phục vụ phát triển du lịch.
Công trình nghiên cứu: Nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo môi
trường du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời kỳ hội nhập và phát triển, do
UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức [158], là các sản phẩm thuộc Hội thảo
khoa học, nhằm tập trung thảo luận về thực trạng chất lượng dịch vụ và môi
trường du lịch của tỉnh; đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ,
đảm bảo môi trường du lịch ngày càng thân thiện, hướng tới phát triển bền
vững. Trong đó, chú trọng liên kết phát triển du lịch vùng; vai trò quản lý Nhà
nước với việc nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch; hỗ trợ thu hút đầu tư, vấn
đề quy hoạch phát triển du lịch trong thời gian tới.
1.2. NHẬN XÉT VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG NỘI DUNG
LUẬN ÁN TIẾP TỤC LÀM RÕ
1.2.1. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã đƣợc công bố
Các công trình nêu trên, tuy được thực hiện theo các hướng tiếp cận
nghiên cứu chuyên ngành khác nhau, hoặc trực tiếp hay gián tiếp đều có
liên quan đến đề tài luận án của nghiên cứu sinh, cụ thể là:
Đã góp phần làm sáng tỏ các khái niệm về phát triển du lịch, phát
triển kinh tế du lịch, Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch...; qua đó, phân
tích rõ hơn các nội dung lãnh đạo và tầm quan trọng của công tác lãnh đạo
25
của Đảng đối với việc phát triển kinh tế du lịch - được xác định là ngành kinh
tế tổng hợp - mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Khái quát có hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng phát triển ngành kinh tế du
lịch ở từng giai đoạn lịch sử trong tổng thể của thời kỳ đổi mới; sự vận dụng
sáng tạo các chủ trương của Đảng vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
kinh tế du lịch ở các đảng bộ địa phương, ngày càng mang lại hiệu quả kinh tế
- xã hội thiết thực, thể hiện rõ vai trò quan trọng của ngành kinh tế du lịch
trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy được nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau nhưng các công trình
đều phản ánh rõ nét thực trạng nền kinh tế du lịch cả nước hoặc ở những địa
phương mà các đề tài tập trung nghiên cứu. Trong đó, nêu bật được các thành
tựu mà ngành kinh tế du lịch mang lại, đồng thời chỉ ra những khó khăn,
thách thức mà Đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải
quan tâm thiết thực hơn.
Nhiều công trình đi sâu tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn trong
nước và của một số nước trên thế giới về phát triển kinh tế du lịch; rút ra các
nhận xét về quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của Đảng hoặc các
Đảng bộ địa phương, phản ánh rõ tính khoa học về cả lý luận và thực tiễn.
Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp và nhiệm vụ phát triển kinh tế du lịch
phù hợp trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả dù ở các
cấp độ khác nhau, chuyên ngành nghiên cứu khác nhau, nhưng đều là những
nghiên cứu chuyên sâu, giúp nghiên cứu sinh có được hướng tiếp cận mới,
nhất là kế thừa nguồn tư liệu, những tiền đề lý luận, phương pháp luận và cơ
sở thực tiễn đúng đắn trong nhận thức về phát triển du lịch nói chung và phát
triển kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng.
26
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên, hầu hết tiếp cận nghiên cứu từ
các chuyên ngành kinh tế, môi trường, quản lý nhà nước và thường là trong
phạm vi rộng cả nước. Các nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch địa phương,
tuy đã được quan tâm, nhưng chưa nhiều. Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
có một số công trình đã được công bố, nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu toàn diện, chuyên sâu theo hướng nghiên cứu lịch sử Đảng như đề tài
nghiên cứu sinh đã lựa chọn. Do đó, vẫn còn những “khoảng trống” khoa học
trong nghiên cứu mà nghiên cứu sinh cần hướng đến.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ
Trên cơ sở đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài, luận án tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau đây:
Hệ thống hóa đầy đủ nguồn sử liệu thuộc lĩnh vực Đảng lãnh đạo phát
triển kinh tế du lịch tại một địa phương, cụ thể là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong
đó, chú trọng hệ thống hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng và của Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của tỉnh từ năm
1991 đến năm 2015 được gắn kết trong không gian chung của cả nước. Qua
đó, đánh giá rõ các bước phát triển về nhận thức trong công tác lãnh đạo phát
triển kinh tế du lịch của một đảng bộ địa phương trong một giai đoạn lịch sử
cụ thể từ 1991 - 2015, mà cụ thể là của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Thông qua phân tích, luận giải làm rõ kết quả lãnh đạo phát triển kinh tế
du lịch của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trên ba lĩnh vực chủ yếu: Quản lý,
quy hoạch phát triển du lịch; phát triển nguồn lực (nhân lực và cơ sở vật chất);
tăng cường các loại hình và sản phẩm du lịch.
Rút ra các nhận xét khoa học, đúc kết những kinh nghiệm nhằm góp phần
làm phong phú thêm lý luận lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế trên một
lĩnh vực, một ngành (cụ thể là ngành kinh tế du lịch) trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua đó, làm rõ hơn những yêu cầu cấp thiết
từ thực tiễn cần phải giải đáp về quá trình lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế
nói chung và kinh tế du lịch nói riêng hiện nay từ góc nhìn lịch sử.
27
Tiểu kết chƣơng 1
Trước yêu cầu phát triển của ngành kinh tế du lịch trong điều kiện mở
cửa và hội nhập, đã có nhiều công trình nghiên cứu về được quan tâm. Một
mặt, nhằm đánh giá khách quan thực trạng ngành kinh tế du lịch nước ta và
công tác lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt
khác, đúc kết kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp khắc phục những hạn chế,
yếu kém, giúp cho Đảng và các cấp ủy có được tầm nhìn đúng đắn về chiến
lược phát triển kinh tế du lịch trong điều kiện mới. Từ đó, tạo ra những bước
phát triển về chiều sâu, đáp ứng yêu cầu của một ngành “kinh tế mũi nhọn”
luôn luôn có vai trò quan trọng, là “đòn bẩy” trong nền kinh tế quốc dân.
Các công trình trong nước, đa số tập trung vào lĩnh vực kinh tế, môi
trường và quản lý nhà nước. Một số khác tiếp cận từ hướng nghiên cứu xã hội
học, địa lý học, chính trị học... Chuyên ngành lịch sử Đảng tuy đã được quan
tâm, nhưng số lượng nghiên cứu chưa nhiều. Các đề tài nghiên cứu về Đảng
lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch trên phạm vi cả nước hoặc ở các địa
phương thuộc chuyên ngành lịch sử Đảng mới chỉ là bước đầu.
Tuy còn những “khoảng trống” về nghiên cứu: Đảng lãnh đạo phát
triển kinh tế du lịch, mà cụ thể đối với Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong
giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2005, nhưng kết quả tổng quan các công trình
nghiên cứu là nền tảng quan trọng, giúp nghiên cứu sinh có được hướng tiếp
cận đúng đắn về nguồn tư liệu, những tiền đề lý luận, phương pháp luận và có
thêm cơ sở thực tiễn trong nghiên cứu, hoàn thành luận án của mình.
28
Chƣơng 2
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2005
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ DU LỊCH CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
2.1.1. Khái niệm về du lịch và kinh tế du lịch
Trên thực tế, đã có nhiều khái niệm về du lịch và kinh tế du lịch, nhưng
vẫn còn có sự khác nhau trong quan niệm giữa những người nghiên cứu và
những người hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, cũng đã có một số khái
niệm được thừa nhận rộng rãi:
Khái niệm về du lịch: Du lịch còn có tên gọi không chính thức là “công
nghiệp không khói” hay “công nghiệp hòa bình của thế giới”, được hình thành
rất sớm từ trong tiến trình lịch sử của loài người. Thuật ngữ “du lịch” được
bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tonos” với ý nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này
được La tinh hóa thành “turnus”, sau đó thành “Tour” trong tiếp Pháp,
“tourism” trong tiếng Anh vào năm 1800. Giáo sư Berneker - một chuyên gia
hàng đầu thế giới về du lịch đã nhận định: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác
giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. Điều đó, cho thấy tính phong
phú về khái niệm du lịch, cũng như tính đa dạng trong các loại hình du lịch.
Theo Tổ chức Du lịch thế giới: Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động
của những người du hành tạm trú với mục đích tham quan, khám phá và tìm
hiểu, trải nghiệm hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn cũng như
mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa trong thời gian liên tục
nhưng không quá một năm ở bên ngoài môi trường sống định cư, loại trừ các
du hành có mục đích chính là kiếm tiền [97, tr.8].
29
Trong Luật Du lịch Việt Nam (2005), tại điều 4, chương I, định nghĩa:
“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cứ trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định [73, tr.8].
Với định nghĩa của Luật Du lịch Việt Nam, về cơ bản đã hội tụ được
nhiều khái niệm của các nhà nghiên cứu và tổ chức du lịch; phản ánh rõ nội
hàm về một hoạt động xã hội có nhiều tính đặc thù, bao gồm nhiều thành phần
tham gia, tạo thành một tổng thể vừa mang đặc điểm của ngành kinh tế vừa có
đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.
Khái niệm về kinh tế du lịch
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về du lịch nhưng còn ít
công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm kinh tế du lịch. Nguyên nhân có thể là
do kinh tế du lịch là một ngành kinh tế đặc biệt, có tính chất tổng hợp, liên
ngành, nên hầu hết các định nghĩa về kinh tế du lịch đều có sự lồng ghép, đặc
biệt là lồng ghép với định nghĩa về du lịch. Do đó, các định nghĩa về kinh tế
du lịch thường tạo nên sự lẫn lộn, khó hiểu, thậm chí có nhiều mâu thuẫn với
nhau giữa các định nghĩa. Ngay cả trong Luật Du lịch Việt Nam, khi giải
thích từ ngữ (điều 4, chương 1) cũng không đưa ra rõ ràng khái niệm về kinh
tế du lịch. Luật chỉ giải thích kinh tế du lịch ở khía cạnh là một bộ phận của
ngành dịch vụ: “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận
chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch
vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch” [73, tr.1].
Trước đó, trong Pháp lệnh Du lịch Việt Nam (1999), tại điều 1, chương I
- Những quy định chung, cũng chỉ mới xác định: “Du lịch là một ngành kinh tế
tổng hợp quan trọng” [160, tr.3], nhưng lại chưa giải thích đầy đủ nội hàm của
nó. Các nhà nghiên cứu nước ta cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Đình Sơn:
30
Kinh tế du lịch là một phạm trù phản ánh bước tiến mới của lực
lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du
lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du
lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán xuất khẩu tại chỗ hàng
hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển [78, tr.36].
Các nhà biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam thì đưa ra khái niệm:
Kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù, mang tính
dịch vụ và thường được xem như ngành “công nghiệp không khói”,
gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong nước; có chức năng, nhiệm
vụ tổ chức, khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất nước nhằm
thu hút khách du lịch trong và ngoài nước; tổ chức buôn bán, xuất
nhập khẩu tại chỗ hàng hoá và dịch vụ cho du khách [133, tr.135].
Tuy nhiên, khái niệm trên đây, cũng chỉ mới đưa ra được đặc điểm,
chức năng, nhiệm vụ, mục đích kinh tế du lịch mà vẫn chưa đầy đủ, chưa
phản ánh hết nội hàm của một ngành kinh tế tổng hợp, chưa thể hiện rõ là một
phạm trù độc lập để không quá lẫn với khái niệm du lịch. Vì vậy, tác giả nhận
thấy, có thể hiểu kinh tế du lịch ở các nội dung:
Kinh tế du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, bao gồm các điều kiện,
các hiện tượng có tính liên ngành, liên vùng và tính xã hội hoá cao, và nằm
trong khối ngành dịch vụ của nền kinh tế quốc dân; có chức năng, nhiệm vụ
tổ chức, khai thác tài nguyên du lịch, tạo ra các loại sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ du lịch phục vụ nhu cầu của du khách; đem lại lợi ích kinh tế, chính
trị, xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Trên thực tế, du lịch vẫn luôn là một dạng hoạt động tổng hợp. Nếu đứng
ở góc độ kinh tế, du lịch mang đặc điểm của một ngành kinh tế. Nếu đứng ở góc
độ xã hội, du lịch lại có đặc điểm của một ngành văn hóa, xã hội. Do vậy, các
31
định nghĩa trên vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu. Trong điều kiện nước ta hiện
nay, quan niệm phổ biến được công nhận rộng rãi vẫn là quan niệm được trình
bày trong Luật Du lịch Việt Nam, 2005.
2.1.2. Tiềm năng du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nằm ở miền Đông Nam Bộ, phía Bắc của tỉnh
giáp tỉnh Đồng Nai, phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp huyện
Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam và Đông Nam giáp Biển Đông
tỉnh. Nằm trên tọa độ địa lý từ 10o20’ đến 10
o50’ vĩ độ Bắc và 107
o00
’ - 107
o35
’
kinh độ Đông, là cửa ngõ hướng ra Biển Đông của các tỉnh trong khu vực
miền Đông Nam Bộ, hội tụ được nhiều tiềm năng để phát triển các ngành
kinh tế, trong đó có thế mạnh của ngành kinh tế du lịch.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có diện tích tự nhiên là 2.047,45 km2, được
phân bổ thành 8 đơn vị hành chính, gồm 2 thành phố: thành phố Vũng Tàu
và Bà Rịa; 6 huyện: Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Châu Đức, Tân Thành
và huyện đảo Côn Đảo. Toàn tỉnh có 82 xã, phường, thị trấn. Địa hình tỉnh
có thể chia làm 4 vùng: Bán đảo, hải đảo, vùng đồi núi bán trung du và vùng
thung lũng đồng bằng ven biển. Bán đảo Vũng Tàu dài và hẹp, diện tích 82,86
km2, độ cao trung bình 3 - 4m so với mặt nước biển. Hải đảo bao gồm quần
đảo Côn Lôn và đảo Long Sơn. Vùng đồi núi bán trung du nằm ở phía Bắc và
Đông Bắc tỉnh phần lớn ở huyện Tân Thành, Châu Đức, Xuyên Mộc. Ở vùng
này có thung lũng đồng bằng ven biển bao gồm một phần đất của các huyện
Tân Thành, Long Điền, Bà Rịa, Đất Đỏ có cảnh quan rất đẹp với những đồng
lúa nước, xen lẫn những vạt đồi thấp và rừng thưa, có những bãi cát ven biển.
Thềm lục địa rộng trên 100.000 km2.
Bà Rịa - Vũng Tàu có bờ biển dài 305,4 km với khoảng 156 km là bờ
biển thoai thoải, nước xanh, có thể sử dụng làm bãi tắm và phát triển các loại
hình du lịch, nghỉ dưỡng, thể thao biển như: Bãi Trước, Bãi Sau, bãi Thùy
32
Vân, Long Hải, Hồ Tràm, Hồ Cốc… Hệ sinh thái biển và ven biển khá độc
đáo, tiềm năng đa dạng sinh học cao thúc đẩy phát triển loại hình du lịch
sinh thái rừng, biển, đảo. Đặc trưng nhất là ở Khu bảo tồn thiên nhiên Bình
Châu - Phước Bửu; suối nước nóng Bình Châu thuộc huyện Xuyên Mộc với
nhiệt độ đến 800C thích hợp với nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh;
Vườn Quốc gia Côn Đảo cùng với hệ thống 16 hòn đảo lớn, nhỏ của huyện
Côn Đảo, phù hợp với loại hình du lịch: khám phá đại dương, lặn biển ngắm
san hô, câu cá, nghiên cứu khoa học.
Khí hậu tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa;
một năm chia hai mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình từ 25 đến 27oC, thấp hơn 2 -
3oC so với khu vực. Nhiệt độ nước biển ít thay đổi, độ ẩm trung bình 83% -
85%. Số giờ nắng rất cao, trung bình hàng năm khoảng 2.400 giờ. Lượng mưa
trung bình năm thấp 1.600 mm. Khí hậu ổn định, quanh năm ấm áp, ít có
thiên tai và thời tiết bất thường, rất thuận lợi cho việc phát triển ngành du lịch
của tỉnh.
Thành phố Vũng Tàu, huyện Côn Đảo là những nơi, điểm du lịch có
nhiều ưu đãi của điều kiện tự nhiên, có tiềm năng du lịch lớn. Thành phố Vũng
Tàu ba mặt giáp biển, cách Thành phố Hồ Chí Minh chỉ 125 km, thành phố
Biên Hòa 90 km. Từ lâu Vũng Tàu là nơi nghỉ ngơi của nhân dân hai thành phố
này và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, đường biển Vũng Tàu có cảng rộng, ưu
thế về độ sâu, là cửa ngõ đường biển của Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
miền Đông Nam Bộ. Côn Đảo là một huyện đảo với hệ thống 16 hòn đảo lớn
nhỏ nằm sát đường hàng hải quốc tế từ châu Âu sang châu Á, tạo địa thế với
nhiều tiềm năng phát triển kinh tế du lịch biển, du lịch tâm linh. Côn Đảo còn
được mệnh danh là “Bàn thờ Tổ quốc”, khiến nhiều du khách muốn tìm hiểu.
Điều kiện tự nhiên đã mang lại cho Bà Rịa - Vũng Tàu nhiều cảnh quan
tươi đẹp. Với nhiều danh lam thắng cảnh hiếm có của cả nước, là những nét
đặc trưng và điều kiện thuận lợi phát triển du lịch, thu hút các nguồn khách
33
của vùng Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh và khách
quốc tế. Vị trí địa lý, điều kiện khí hậu thuận lợi cũng tạo ra những lợi thế hơn
hẳn so với các tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung trong phát triển du lịch
biển, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch về nguồn, tâm linh… Hệ sinh thái
biển và ven biển khá độc đáo, có nhiều núi với địa hình và cảnh quan đẹp trên
núi như: Minh Đạm, Núi Dinh, Núi Lớn, Núi Nhỏ có khả năng hình thành các
khu du lịch phức hợp quy mô lớn.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Về điều kiện kinh tế, sau khi thành lập tỉnh, xuất phát điểm kinh tế - xã
hội của tỉnh thấp và còn khó khăn, kết cấu hạ tầng còn hạn chế, nhưng với sự
nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhanh
chóng trở thành tỉnh có kinh tế công nghiệp, dịch vụ, du lịch, hải sản phát
triển nhanh. Năm 1991, xí nghiệp liên doanh dầu - khí Việt - Xô đã khai thác
được hơn 10 triệu tấn dầu thô là tín hiệu mới cho nền kinh tế Bà Rịa - Vũng
Tầu. Sự phát triển nhanh, mạnh của ngành dầu khí là ngành kinh tế mũi nhọn
của cả nước lúc bấy giờ đã tạo điều kiện và khả năng cho tỉnh khai thác tiềm
năng phát triển kinh tế dịch vụ và một số ngành, làm thay đổi tích cực cơ cấu
kinh tế, dân cư và cơ cấu đầu tư. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa
phương trong năm 1991 đạt 182 tỷ đồng (tính theo giá trị cố định năm 1989),
chiếm 36% giá trị tổng sản phẩm xã hội đem lại nhiều thuận lợi cho tỉnh.
Các ngành kinh tế dịch vụ có xu thế phát triển ngày càng tỏ rõ vị trí
trọng yếu trong sự nghiệp phát triển kinh tế địa phương. Dịch vụ dầu - khí và
dịch vụ du lịch ngày càng mở rộng quy mô và hình thức hoạt động. Ngay từ
năm đầu mới thành lập tỉnh (1991), “Tổng doanh thu của ngành du lịch tại địa
phương đạt 85 tỷ đồng Việt Nam và 1,6 tỷ USD”, chiếm 19,9% giá trị tổng
sản phẩm xã hội [47, tr.13]. Đây là kết quả mà ngay cả nhiều tỉnh có tiềm
năng cũng chưa có được, nhất là trong thời điểm còn nhiều khó khăn về cả
34
điều kiện kinh tế lẫn cơ chế. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành các vùng có các
lợi thế nhất định về kinh tế, phát triển du lịch.
Trong sản xuất nông nghiệp đã hình thành các vùng chuyên canh cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu, đồng thời đáp ứng
một phần quan trọng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Giá trị tổng sản lượng
nông nghiệp năm 1991 là 256 tỷ đồng (tính theo giá trị cố định năm 1989). Sự
phát triển chiều sâu của ngành nông nghiệp (bao gồm cả nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản), đòi hỏi cấp thiết sự phát triển của công nghiệp chế biến.
Các ngành sản xuất, kinh doanh khác trong tỉnh đều bước đầu được sắp
xếp lại và có sự đổi mới về cơ chế quản lý. Cơ sở vật chất đã được tăng
cường. Nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã hình
thành rõ nét và phát huy được các yếu tố tích cực.
Tuy còn những khó khăn do hạn chế trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt
trong công tác quản lý và tổ chức sản xuất, làm cho các ngành kinh tế, nhất là
kinh tế dịch vụ (trong đó có dịch vụ du lịch) phát triển thiếu cân đối, chưa khai
thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nhưng với những kết quả đạt được
trong từng giai đoạn là cơ sở, nền tảng quan trọng để tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
có những chủ trương bứt phá đi lên.
Cùng với cơ sở kinh tế, cơ sở hạ tầng giao thông tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu được quan tâm coi trọng. Nhờ phát triển mạnh của ngành Dầu - khí, các
yêu cầu về phát triển hạ tầng kinh tế, trong đó có hạ tầng giao thông được đầu
tư và phát triển mạnh. Ngay từ năm 1991, tỉnh đã có hệ thống giao thông phát
triển khá tốt so với một số tỉnh trong vùng. Nằm trên lục địa đường xuyên Á,
Bà Rịa - Vũng Tàu có quốc lộ 51 thông ra với Quốc lộ 1 và tuyến đường Hồ
Chí Minh trên biển; có hệ thống cảng biển quan trọng của khu vực và cả nước
(có thể đón tàu trọng tải trên 180 vạn tấn); giao thông đường bộ nối liền với
các tỉnh, thành phố lân cận trên ba tuyến quốc lộ 51, 55 và 56, đóng vai trò là
động mạch chủ, phối hợp liên hoàn với các tuyến tỉnh lộ, các trục giao thông
35
chính, trải đều trên toàn địa bàn tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu đi lại,
phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch từ thành thị, đến nông thôn, kể cả một số
vùng sâu, vùng xa.
Đặc biệt, Quốc lộ 51 được nâng cấp mở rộng và đường cao tốc Thành
phố Hồ Chí Minh - Long Thành từng bước đáp ứng nhu cầu vận chuyển
khách du lịch, nhất là khách du lịch cuối tuần; hệ thống cảng biển nước sâu,
thu hút nhiều hãng tàu có trọng tải lớn và tàu du lịch cập cảng, đón nhiều ngàn
lượt khách du lịch tham quan các công trình dầu khí và nghỉ dưỡng. Hệ thống
giao thông tỉnh lộ, huyện lộ đã gắn kết toàn diện mạng lưới giao thông đường
bộ của tỉnh với các tỉnh, thành khác trong cả nước và quốc tế, mở ra những
triển vọng lớn về phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và ngành du lịch nói
riêng. Các huyện, thành phố ven biển chủ trương đầu tư mạnh vào hệ thống hạ
tầng, tạo thuận lợi cho du khách lưu thông nhanh đến các điểm du lịch trên địa
bàn tỉnh; đường hàng không, có hai sân bay tại thành phố Vũng Tàu và huyện
Côn Đảo dùng cho máy bay trực thăng lên xuống phục vụ công tác thăm dò và
khai thác dầu khí, vận chuyển hành khách từ Vũng Tàu đi Côn Đảo, Thành phố
Hồ Chí Minh, là điều kiện tốt cho phát triển KT-XH, trong đó có ngành du lịch.
Cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống Quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ cùng với
hệ thống cảng biển nước sâu và các sân bay, từng bước gắn kết toàn diện
mạng lưới giao thông trong tỉnh với các tỉnh, thành khác trong cả nước và
quốc tế, mở ra những triển vọng lớn về phát triển kinh tế nói chung và kinh tế
du lịch nói riêng của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Về văn hóa - xã hội, từ xa xưa, Bà Rịa - Vũng Tàu là địa bàn người
Việt đến cư ngụ sớm hơn so với những nơi khác ở Nam Bộ, là vùng đất ở vị trí
địa đầu, giáp miền Trung, nằm trên cửa sông lớn, cận biển nên Bà Rịa - Vũng
Tàu trở thành nơi dừng chân của những lưu dân Việt sớm nhất nếu không nói là
đầu tiên so với các nơi khác ở phía Nam [73, tr.20]. Cư dân sống bằng nghề biển
vốn rất nhiều và có mặt từ rất sớm, họ lập miếu thờ Bà, thờ Ông Nam Hải…
36
những người giàu lòng nhân ái, sẵn sàng cứu khổ cứu nạn cho người đi biển.
Lịch sử phát triển của vùng này tiếp nối qua các thời kỳ đấu tranh dựng nước và
giữ nước đã tạo nên những nét riêng biệt trong văn hóa và đời sống xã hội của
cộng đồng dân cư. Càng về sau, do các ngành nghề kinh tế phát triển cùng với
tốc độ CNH, HĐH trên địa bàn, số dân nhập cư đến Bà Rịa - Vũng Tàu tăng
nhanh, nhất là nguồn lao động công nghiệp và dịch vụ.
Nhân dân trong tỉnh có truyền thống đoàn kết gắn bó trong kháng chiến
cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tinh
thần lao động cần cù, sáng tạo luôn được phát huy và mang lại nhiều giá trị
trong lao động sản xuất.
Khi thành lập, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (gồm đặc khu Vũng Tàu - Côn
Đảo và 3 huyện Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc của tỉnh Đồng Nai) có 5
đơn vị hành chính (gồm thành phố Vũng Tàu và 4 huyện: Côn Đảo, Long Đất,
Châu Thành, Xuyên Mộc) với số dân 587.499 người (sau 4 lần được Quốc hội
và Chính phủ điều chỉnh địa giới hành chính, dân số đến năm 2015 tỉnh có 8
đơn vị hành chính gồm: Thành phố Vũng Tàu, thành phố Bà Rịa, 6 huyện là:
Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Châu Đức, Tân Thành, Côn Đảo, dân số
1.150.000 người). Hệ thống chính trị trong tỉnh từng bước được kiện toàn.
Ngay từ khi thành lập, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có những
chủ trương chăm lo phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời
kỳ CNH, HĐH. Tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành xây dựng kế hoạch, ban
hành các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các ngành kinh tế,
trong đó chú trọng đào tạo cán bộ tham gia phát triển ngành du lịch: “Kết hợp
đào tạo dài hạn, trung hạn và ngắn hạn (cả trong nước và nước ngoài); nội
dung chương trình gồm những vấn đề thiết thực về chính trị, nghiệp vụ du
lịch và an ninh kinh tế” [119, tr.4]. Đối với ngành du lịch, công tác đào tạo
nguồn nhân lực được coi là một trong những giải pháp quan trọng để nâng
cao chất lượng dịch vụ. Với tiêu chí là điểm đến “an toàn, ấn tượng, thân
37
thiện”, góp phần triển khai chương trình “những địa chỉ tin cậy của du lịch Bà
Rịa - Vũng Tàu”, Đảng bộ tỉnh chủ trương đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức
kinh doanh văn minh, thân thiện cho nhân dân, doanh nghiệp, xây dựng đội
ngũ cán bộ du lịch chuyên nghiệp, năng động và sáng tạo.
Năm 1991, lao động trong ngành du lịch tỉnh có gần 3.745 người, trong
đó số lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 15,4%. Đảng bộ tỉnh xác
định tiềm năng phát triển trong khoảng 5 năm tới sẽ có thêm vài chục dự án du
lịch đi vào hoạt động, ngành du lịch phải đào tạo thêm khoảng 10.000 lao động,
trong đó có ít nhất hơn 3.000 lao động trình độ đại học, cao đẳng, hơn 4.000
lao động trình độ trung cấp, số còn lại tối thiểu phải qua đào tạo sơ cấp.
Những dự báo của Đảng bộ tỉnh phản ánh đúng cơ sở thực tiễn. Sau
này, các dự án đầu tư du lịch ngày càng tăng nhanh, tỉnh đã đáp ứng cơ bản
nguồn nhân lực tại chỗ, chỉ phần ít phải tuyển dụng từ bên ngoài, giải quyết
kịp thời lao động thực hiện các dự án. Đây cũng là nền tảng quan trọng để các
nhà đầu tư tăng nhanh các doanh nghiệp du lịch; đồng thời, tổ chức các hoạt
động đầu tư, kinh doanh đem lại hiệu quả ngày càng cao.
Về tài nguyên du lịch nhân văn, trải qua thăng trầm lịch sử, người dân
Bà Rịa - Vũng Tàu đã để lại nhiều chứng tích, di tích lịch sử văn hóa mang
đậm giá trị nhân văn tồn tại qua các thời đại cho đến ngày nay. Trong tổng số
218 di tích đã được thống kê khoa học bước đầu, có 48 di tích xếp hạng cấp
quốc gia và cấp tỉnh, trong đó có 29 di tích cấp quốc gia, 01 di tích quốc gia
đặc biệt Côn Đảo [92, tr.3] đã góp phần tạo nên cốt cách văn hóa đặc sắc, là
điều kiện thuận lợi để phát triển đa dạng các loại hình du lịch, như du lịch tâm
linh, du lịch văn hóa gắn với các lễ hội.
Trong đó, nhóm di tích lịch sử, kiến trúc tôn giáo, bao gồm các kiến
trúc đình, miếu, chùa, nhà thờ đều gắn với những cảnh quan thiên nhiên kỳ
thú và hấp dẫn, như: 10 đền thờ cá voi, là địa danh có đền thờ cá voi nhiều
nhất ở miền Nam; khu Đình Thắng Tam, Thích Ca Phật Đài, Niết Bàn Tịnh
38
Xá, Tượng Chúa Kytô, Bạch Dinh, Trận địa pháo cổ… là các địa danh phát
triển thành các điểm du lịch lễ hội, tâm linh rất có giá trị. Lễ hội cũng phong
phú và sinh động. Mỗi năm có hơn 30 lễ hội thu hút lượng khách du lịch tham
gia ngày càng đông, thuận lợi cho việc phát triển sản phẩm du lịch của tỉnh.
Nhóm di tích lịch sử, cách mạng và kháng chiến, phản ánh quá trình
đấu tranh kiên cường bảo vệ Tổ quốc của nhân dân vùng biển trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, như: Địa đạo Long Phước,
Căn cứ Minh Đạm, Khu căn cứ kháng chiến Bàu Sen, Bến Lộc An với đường
Hồ Chí Minh trên biển, địa đạo Kim Long, nghĩa trang Hàng Dương, nhà tù
Côn Đảo… là những địa danh nổi tiếng phục vụ cho loại hình du lịch tham
quan, về nguồn.
Các di tích lịch sử gắn với hoạt động lễ hội được bảo tồn, phát huy và
phát triển, phản ánh đúng đắn và hiệu quả các chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, nhất là công tác xã hội hoá các hoạt động văn hoá, lễ hội,
bảo tồn các di tích lịch sử. Một số di tích trọng điểm, các lễ hội, văn hoá dân
gian, làng nghề được khôi phục, góp phần quan trọng vào sự thành công của
ngành du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn nhiều nghề truyền thống đang
bị suy giảm; sản phẩm lưu niệm chưa tạo được bản sắc đặc trưng; nghệ thuật
dân gian, văn hoá ẩm thực chưa được đưa vào khai thác phục vụ du lịch.
Như vậy, với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ưu đãi, nguồn tài
nguyên nhân văn phong phú, những yếu tố về văn hóa và truyền thống lịch sử,
Bà Rịa - Vũng Tàu là địa phương rất phong phú tiềm năng và điều kiện để
phát triển ngành kinh tế du lịch một cách toàn diện, bền vững.
2.1.3. Thực trạng kinh tế du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu trƣớc năm 1991
Trước khi được thành lập, kinh tế du lịch của tỉnh còn nhỏ yếu, phát
triển hạn chế trong khuôn khổ của đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo. Hoạt động
du lịch còn ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp, nên hầu như chưa tính đến hiệu
39
quả kinh tế, chủ yếu chỉ phục vụ nghỉ dưỡng theo chế độ của cán bộ trong kế
hoạch được phân bổ từ các cơ quan, đơn vị trong tỉnh và trong vùng.
Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo được thành lập ngày 30 tháng
5 năm 1979 trên cơ sở sáp nhập thị xã Vũng Tàu, xã Long Sơn thuộc
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai và huyện Côn Đảo thuộc tỉnh Hậu Giang.
Việc thành lập đặc khu được cho là bức thiết trong bối cảnh mới thành lập
ngành công nghiệp khai thác dầu - khí tại Việt Nam.
Được kế thừa những cơ sở du lịch có từ thời Pháp thuộc và thời Việt
Nam cộng hòa, với sự nỗ lực của tỉnh Đồng Nai, từ sau năm 1975, các cơ sở
này được cải tạo để phục vụ du lịch cho quần chúng nhân dân, chủ yếu là
những đối tượng có điều kiện, như các doanh nhân và Việt kiều từ nước ngoài
về. Công tác kinh doanh du lịch vẫn còn hạn chế. Một vài công ty của ngành
dầu khí mới được thành lập, như Công ty cổ phần dầu khí (thành lập 1977) có
trụ sở tại Vũng Tàu, chỉ nhằm phục vụ cán bộ dầu khí, phần kinh doanh du
lịch còn rất ít. Do chức năng nhiệm vụ quy định, Công ty đã dành một số cơ
sở vật chất kỹ thuật, lập nên khu dịch vụ dầu khí Lam Sơn có 11 khách sạn,
26 biệt thự, 2 trụ sở, 1 bệnh viện, 1 trường học trẻ em Liên Xô, 1 Câu lạc bộ
Dầu khí, 3 sân tenis, 1 cửa hàng nhưng chủ yếu là để phục vụ nội bộ. Phần
còn lại, dùng trong kinh doanh du lịch quốc tế và nội địa rất hạn chế, chỉ có
duy nhất cụm khách sạn Hòa Bình (4 khách sạn Tam Thắng, Hạnh Phước,
Thiên Thai: 181 phòng), khách sạn Pacific: 53 phòng) nhưng mức độ hoạt
động rất hạn hẹp [8, tr.75].
Giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1985, Đảng bộ đặc khu đã có nhiều chủ
trương khai thác các điều kiện trên, đưa công tác dịch vụ phục vụ thăm quan,
nghỉ mát, tắm biển vào hoạt động du lịch, coi đây là thế mạnh có triển vọng lớn
trong phát triển kinh tế của địa phương. Trong hai năm 1982 - 1983, chủ trương
của Đảng bộ Đặc khu là làm sạch diện mạo đô thị Vũng Tàu, nhất là các bãi tắm,
các công trình văn hóa - xã hội để hướng tới phát triển du lịch. Trên các bãi sú
40
vẹt, sình lầy đã được xây dựng nhiều công trình, làm cho Vũng Tàu ngày càng
khang trang, sạch đẹp hơn. Cùng với việc chỉnh trang đô thị, bãi tắm, đặc khu
tiến hành quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch; thành lập Công ty
Du lịch Vũng Tàu; cải tạo và xây dựng bãi tắm Thùy Vân; tổ chức quản lý, kinh
doanh trên các bãi biển; chú trọng bảo vệ, tôn tạo, giữ gìn khu di tích lịch sử
cách mạng Côn Đảo, được coi là sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương. Đảng
bộ đặc khu đề ra chủ trương thành lập Ban Quản lý phụ trách Khu di tích Côn
Đảo, hình thành bộ máy nhân sự; thúc đẩy nhanh việc đào tạo nguồn nhân lực;
mở rộng các hình thức đầu tư kinh phí bảo quản khu di tích, tiến tới kinh doanh
các hoạt động du lịch. Nhờ vậy, Côn Đảo nhanh chóng thu hút nhiều đoàn khách
trong nước và quốc tế đến thăm quan, nghỉ dưỡng.
Năm 1983, Đại hội Đảng bộ đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo lần thứ I, vòng
II xác định: “Xây dựng các cơ sở du lịch, dịch vụ, nhà cửa, các công trình văn
hóa… phục vụ cán bộ và nhân dân; đưa hoạt động dịch vụ du lịch lên thành
ngành chính” [8, tr.91]. Từ đó, cơ sở hạ tầng kinh doanh du lịch, dịch vụ, nghỉ
mát, tắm biển, tham quan được chú trọng xây dựng, từng bước đi vào hoạt động.
Đến năm 1986, khi chuyển sang cơ chế quản lý mới, từng bước tiến tới
tự chủ, hạch toán kinh doanh, Đảng bộ Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo xác
định nhiệm vụ 5 năm (1986 - 1991) cho ngành Du lịch là: Phải tạo ra sự
chuyển biến mới về năng lực và chất lượng phục vụ; phát triển kịp thời và
đồng bộ các dịch vụ về ăn, ở, tắm biển, vui chơi, giải trí, tham quan trên biển,
trên núi, ngoài đảo, đáp ứng yêu cầu của khách du lịch trong nước và nước
ngoài. Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang bị phương tiện phục vụ khách du
lịch. Mở rộng liên doanh, liên kết với các tỉnh, thành để tạo nguồn hàng phục vụ
và nối tuyến du lịch Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí Minh - Đà Lạt - Nha Trang -
Hải Phòng - Quảng Ninh, củng cố tuyến du lịch đi Côn Đảo. Song song với nhiệm
vụ đó, nâng cao chất lượng trình độ cán bộ, nhân viên ngành du lịch, hợp tác chặt
chẽ giữa công ty du lịch Trung ương và địa phương trong dịch vụ du lịch.
41
Từ sau chủ trương trên, hoạt động du lịch có những bước chuyển biến
đáng kể. Đặc biệt, từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho
các đơn vị kinh doanh tổng hợp bằng nguồn vốn sẵn có liên doanh với nước
ngoài và các đơn vị trong nước tăng cường cải tạo, trang bị, nâng cấp nhiều
cửa hàng, khách sạn, như: Hotex 88, Bãi Dứa, Lư Sơn… Theo đó, mạng lưới
du lịch nhân dân được mở rộng, đã có gần 600 phòng phục vụ theo hình thức
phối hợp, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân [12, tr.145].
Trong thời gian này, tuy điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng
với sự năng động trong phát triển của ngành dầu khí, và tính hấp dẫn của
vùng biển Vũng Tàu, lượng khách du lịch, đặc biệt khách du lịch quốc tế tăng
khá nhanh. Để đáp ứng với yêu cầu phát triển, Đảng bộ đặc khu đã chú trọng
đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng phục vụ, từng bước vươn lên trở
thành ngành kinh tế hàng đầu trong cơ cấu kinh tế, góp phần xây dựng Đặc
khu Vũng Tàu - Côn Đảo thêm giàu đẹp, văn minh. Đảng bộ đặc khu chủ
trương đầu tư mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất, tiếp tục tăng thêm các khách
sạn, nhà nghỉ với nhiều loại kiến trúc khác nhau vừa mang nét hiện đại, vừa
mang nét dân tộc cổ kính. Các khu Lam Sơn, Bãi Trước, Bãi Sau, Bãi Dứa,
Bãi Dâu... được xây dựng cùng với mạng lưới du lịch nhân dân, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu phục vụ của du khách.
Nhờ đó, lượng du khách đến Vũng Tàu tăng ấn tượng, trung bình 30 -
40 vạn lượt người/năm; năm 1990 đã lên tới 70 - 80 vạn lượt người. Đặc khu
có 10 đơn vị kinh doanh du lịch, có gần 100 khách sạn, biệt thự với 3.155
phòng ngủ, trong đó có hơn 1.000 phòng đủ tiêu chuẩn phục vụ khách quốc
tế. Ngoài ra, có hơn 70 nhà nghỉ, nhà khách của các tỉnh, đơn vị Trung ương
và hơn 500 nhà trọ bình dân của tư nhân [8, tr.144]. Tuy nhiên, năm 1990, do
biến động của tình hình thế giới, việc phát triển du lịch bị giảm sút, đặc khu
Vũng Tàu - Côn Đảo đã sắp xếp, tổ chức lại kinh doanh. Trước mắt, giải thể
“Công ty du lịch Vũng Tàu”, thành lập “Công ty dịch vụ Du lịch Vũng Tàu”;
42
đồng thời, thành lập mới “Công ty Vũng Tàu Intourco” vừa đáp ứng nhu cầu
xã hội, vừa tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, ngành du lịch của đặc khu Vũng
Tàu - Côn Đảo từng bước tạo dựng được cơ sở vật chất, thu hút lớn lượng
khách trong nước và ngoài nước. Doanh thu du lịch góp phần quan trọng cho
sự phát triển chung của đặc khu. Có thể nói, sự phát triển du lịch trong giai
đoạn này, là tiền đề quan trọng cho việc phát triển du lịch của tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu từ sau khi được thành lập (1991) trở đi.
Tuy nhiên, đánh giá khách quan, tốc độ và chất lượng hoạt động du lịch
thời kỳ trước năm 1991 vẫn chưa tương xứng với tiềm năng là một trong
những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước. Hoạt động du lịch chủ yếu chỉ
phục vụ công tác khai thác dầu khí, khách tham quan hoạt động dầu khí. Số
lượng khách trong nước và quốc tế còn rất hạn chế. Du lịch, “chưa khai thác
được tốt mọi tiềm năng trong tỉnh” [39, tr.16]. Đội ngũ cán bộ làm kinh tế du
lịch chưa tiếp cận được với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường. Cơ sở du lịch thường lúng túng trong việc giải quyết
các khó khăn về vốn, vật tư, marketing và công tác tiếp thị. Nhiều cơ sở du
lịch kinh doanh không có hiệu quả.
Những hạn chế, bất cập nêu trên, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu sau khi được thành lập phải có những bứt phá chiến lược trong chủ
trương, thúc đẩy du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
2.2. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU VẬN DỤNG CHỦ TRƯƠNG
CỦA ĐẢNG, LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH (1991 - 2005)
2.2.1. Một số chủ trƣơng của Đảng về phát triển kinh tế du lịch
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1985 - 1991), tuy tình
hình thế giới có nhiều biến động, nhưng tình hình chính trị của đất nước vẫn giữ
được ổn định. Nền kinh tế có những bước phát triển, hình thành nền kinh tế hàng
43
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đáp ứng công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng, ban hành
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, trong đó
xác định: “Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ cần được đẩy mạnh phát triển trên
cơ sở khai thác sự hấp dẫn của thiên nhiên, di sản văn hóa phong phú và các
lợi thế khác của đất nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để phát triển mạnh
du lịch” [38, tr.253]. Lần đầu tiên, Đảng đề cập tới: “Phát triển du lịch, vận tải
hàng không” [33, tr.74] và phát triển du lịch gắn với tài nguyên biển: “Vùng
biển và thềm lục địa rộng lớn có nhiều tiềm năng về thủy sản, dầu khí, dịch vụ
hàng hải và du lịch” [38, tr.242].
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 14 tháng 10 năm 1994, Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa VII) ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW về lãnh đạo
đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới. Đánh giá rõ những kết quả
và hạn chế, khó khăn cần khắc phục, Ban Bí thư chủ trương đổi mới và phát
triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế du lịch, trên các quan điểm là:
Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường
lối phát triển KT - XH của Đảng và Nhà nước, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hoạt động du lịch phải
đồng thời đạt hiệu quả trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái,
giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và nhân
phẩm con người Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
thế giới, góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước [5, tr.1].
Quan điểm nêu trên đã mở ra cho ngành du lịch hướng phát triển mới
không chỉ đối với du lịch nội địa mà còn mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
44
Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương, lần đầu tiên đưa ra
khái niệm: “Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hóa cao” [5, tr.2]. Từ chủ trương này cho thấy, du lịch không còn là
tránh nhiệm của một ngành chức năng như trong thời kỳ bao cấp mà còn là
nhiệm vụ, trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân và các
tổ chức xã hội, cần sự quan tâm phối hợp chặt chẽ với nhau.
Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò của ngành kinh tế du lịch và tiềm năng
du lịch của đất nước, Chỉ thị số 46-CT/TW nêu rõ mục tiêu cơ bản của ngành
du lịch đến năm 2000, là: “Đổi mới và phát triển các cơ sở và phương thức
kinh doanh phục vụ, tạo được các sản phẩm du lịch mang tính dân tộc, kết hợp
với tính hiện đại, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thành
vượt mức chỉ tiêu đón khách du lịch và những chỉ tiêu kinh tế, xã hội nhà nước
giao, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ và lành mạnh du lịch Việt Nam
vào đầu thế kỷ XXI” [5, tr.2].
Để lãnh đạo thực hiện mục tiêu trên, Ban Bí thư cũng đề ra yêu cầu đối
với các cấp ủy, các tổ chức Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác du lịch; tăng cường công tác quản lý, hoàn thiện các văn bản
pháp luật, chính sách về công tác du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển trong
giai đoạn mới; chỉ đạo chặt chẽ công tác xã hội hóa du lịch…
Chỉ thị số 46-CT/TW là nền tảng quan trọng để Chính phủ và các cấp,
các ngành chỉ đạo, khuyến khích các thành phần kinh tế tổ chức kinh doanh
du lịch dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế
Việt Nam đã có bước tăng trưởng khá ở tất cả các lĩnh vực kinh tế: công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, tài chính, tiền tệ… Đối với ngành kinh tế du
lịch, sau hơn hai năm thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư, đã có
nhiều tiến bộ vượt bậc, được đánh giá có bước phát triển nhanh với mức
doanh thu tăng đều, gấp 10 lần năm 1986 [46, tr.358]. Du lịch đã thể hiện rõ
45
là ngành kinh tế tổng hợp, đóng góp quan trọng trong nền kinh tế của đất
nước. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng và hiệu quả kinh tế du lịch vẫn còn
một số mặt hạn chế, đang nằm ở dạng tiềm năng chưa được khai thác tốt. Cơ
sở vật chất, kết cấu hạ tầng của cả nước còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân
lực còn nhiều hạn chế, dẫn đến chất lượng dịch vụ du lịch chưa cao.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng, tiếp tục chủ
trương đẩy mạnh CNH, HĐH các ngành kinh tế, trong đó chú trọng phát triển
kinh tế du lịch. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Phát triển du lịch, các dịch vụ hàng
không, hàng hải, bưu chính viễn thông, với mục tiêu: Từng bước đưa nước ta
trở thành trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực
[42, tr.89]. Đại hội nhấn mạnh, nhiệm vụ phát triển du lịch cần tập trung vào
các sản phẩm đặc trưng, phù hợp tiềm năng của đất nước:
Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương
xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch
văn hóa, sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và các
điểm du lịch hấp dẫn về văn hóa, di tích lịch sử và khu danh lam
thắng cảnh. Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch,
ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung,
ở các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hóa và chất lượng dịch
vụ phù hợp với các loại khách du lịch khác nhau [34, tr.194].
Chủ trương cụ thể của Đảng cũng chỉ ra các yêu cầu về tăng cường
huy động vốn đầu tư vào hạ tầng khách sạn với hình thức cổ phần hóa các
khách sạn để tăng cường đầu tư cải tạo, nâng cấp, chuyển các nhà nghỉ, nhà
khách sang kinh doanh khách sạn và du lịch. Đặc biệt, tăng cường liên doanh
với nước ngoài để việc xây dựng các khu du lịch cũng như khách sạn đạt chất
lượng cao, đưa đất nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại dịch
vụ có tầm cỡ trong khu vực.
46
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng đi sâu tổng kết
những thành tựu đạt được của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15
năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế - xã hội (1991 - 2000), rút
ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó, đề ra chiến lược phát triển trong
nhiệm kỳ tới. Đại hội thông qua Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ
XXI (2001 - 2010), nhằm mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa,
tinh thần của nhân dân. Theo đó, ngành du lịch cũng được tăng cường chỉ
đạo, góp phần hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ Đảng đề ra trong giai đoạn
2001 - 2005:
Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn;
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi
thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử,
đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc
tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và
nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy
mạnh hợp tác, liên kết với các nước [35, tr.178].
Đại hội đề ra định hướng cụ thể phát triển kinh tế du lịch trong giai
đoạn từ 2001 đến 2005:
Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Liên
kết chặt chẽ các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư
phát triển một số khu du lịch tổng hợp và trọng điểm; đưa ngành du
lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển và đa dạng hóa
các loại hình và các điểm du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, lịch sử,
thể thao hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Xây dựng và nâng
cấp cơ sở vật chất và đẩy mạnh hợp tác liên kết với các nước trong
hoạt động du lịch [35, tr.287].
47
Cùng với việc xác định chủ trương phát triển chung cho ngành du lịch
trên phạm vi cả nước, trong “Định hướng phát triển các vùng lãnh thổ”, Đại
hội IX của Đảng còn nêu rõ quan điểm phát triển của từng vùng. Đối với vùng
miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Đại hội chỉ rỏ:
“Ngoài trung tâm du lịch và dịch vụ lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung
phát triển du lịch, dịch vụ biển ở Vũng Tàu, Côn Đảo, Mũi Né. Hình thành
các đô thị vệ tinh của Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa” [35, tr.313].
Đây là cơ sở để các địa phương xây dựng những định hướng phát triển
du lịch phù hợp, khai thác tối đa thế mạnh trên địa bàn, đưa du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn.
Đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, năm 2005, Luật Du lịch được
ban hành là cơ sở pháp lý để tăng cường công tác quản lý Nhà nước, tạo điều
kiện thuận lợi cho đầu tư, thúc đẩy phát triển du lịch. Một trong những nguyên
tắc cơ bản phát triển du lịch được Luật nêu rõ là: “Phát triển du lịch bền vững,
theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hoà giữa kinh tế, xã hội và môi trường;
phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch
sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch” [73, tr.11].
2.2.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát
triển kinh tế du lịch (1991 - 2005)
Sau khi thành lập Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Quyết định số 64-
NQ/TW, ngày 25-9-1991 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII), Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khẩn trương củng cố tổ chức Đảng, bộ máy,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội, khắc phục khó
khăn, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có
nền kinh tế phát triển theo cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Trong đó, tận dụng lợi thế về không gian địa - kinh tế, với nhiều tiềm năng
phát triển kinh tế du lịch như “hơn 100 km chiều dài bờ biển, phần lớn là bãi
cát bằng phẳng, nước trong xanh quanh năm, có thể làm bãi tắm tất cả các
48
mùa…; khu rừng nguyên sinh Bình Châu - Phước Bửu, vườn quốc gia Côn
Đảo, khu di tích quốc gia Côn Đảo rất có ý nghĩa đối với du lịch sinh thái, du
lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh, giáo dục truyền thống” [12, tr.176].
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ I (4-1992),
trên cơ sở phân tích, đánh giá rõ thực trạng tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
của tỉnh; nhìn nhận rõ những nội dung còn hạn chế ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế nói chung và kinh tế du lịch nói riêng. Trong đó, thể hiện ở một số
lĩnh vực kinh tế, như: công nghiệp địa phương còn nhỏ bé, công nghệ chậm
đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất ở trình độ tinh chế. Các ngành kinh tế
dịch vụ phát triển thiếu cân đối, dịch vụ cho sản xuất chưa được chú trọng
đúng mức, chưa khai thác tốt mọi tiềm năng trong tỉnh để làm dịch vụ. Sản
xuất nông nghiệp còn nhiều khó khăn về cung ứng vật tư, giá cả thị trường
tiêu thụ. Hiệu quả nuôi trồng hải sản còn thấp. Rừng bị tàn phá nghiêm trọng.
Nhiều công ty, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tín dụng,… thua lỗ nặng,
khó có khả năng thanh toán nợ nần. Các dự án hợp tác đầu tư với các công ty
nước ngoài phát huy hiệu quả còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng (phương tiện giao
thông, liên lạc, điện, nước, các cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế, v.v…) tuy đã
được cố gắng cải tạo, bổ sung song vẫn rất lạc hậu so với yêu cầu. Hàng ngàn
lao động không có việc làm ổn định. Tệ nạn xã hội và tình trạng vi phạm pháp
luật có chiều hướng gia tăng. Đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chưa tiếp cận kịp nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, lúng túng trong giải
quyết các khó khăn về vốn, vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm…
Trong điều kiện mới thành lập, các công việc ổn định bộ máy tổ
chức, sắp xếp hợp lý lực lượng cán bộ, điều tra cơ bản, quy hoạch tổng
thể… phải cần có thêm thời gian. Những khó khăn nêu trên, trực tiếp hoặc
49
gián tiếp đều ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch
của tỉnh. Đại hội của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề ra chủ trương:
Về dịch vụ du lịch, coi trọng cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Mở
rộng liên doanh tạo nguồn du lịch trong và ngoài nước. Tổ chức
nhiều điểm du lịch với các loại hình du lịch phong phú, khai thác có
hiệu quả điều kiện tự nhiên các di tích lịch sử và các sản phẩm du lịch
hiện có. Gọi vốn đầu tư xây dựng các khu du lịch ở Vũng Tàu, Long
Hải, Bình Châu. Phát huy khả năng kinh doanh dịch vụ du lịch của
nhân dân. Nâng cao tính văn hóa, tính dân tộc trong hoạt động du
lịch, tăng doanh thu dịch vụ du lịch bình quân 9,5%/năm” [39, tr.27].
Các vấn đề về thị trường du lịch, nguồn lực đầu tư cho du lịch, sản
phẩm du lịch, các khu du lịch trọng yếu của tỉnh được Đảng bộ tỉnh chỉ đạo,
tạo điều kiện để hoạch định thành chương trình, kế hoạch cụ thể trong quá
trình triển khai thực hiện; tranh thủ mọi khả năng để mở rộng hoạt động, đem
lại kết quả kinh doanh cao nhất.
Như vậy, ngay từ khi thành lập tỉnh, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc về những khó khăn thách thức, đồng thời cũng
nhận thấy rõ tiềm năng, thế mạnh về phát triển du lịch của tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ II (tháng 5-
1996), trên cơ sở đánh giá kết quả gần 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ I, và nhất là việc thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong
tình hình mới, Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ ghi nhận: “Kinh tế dịch
vụ phát triển đa dạng hơn trước, đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu của
sản xuất và đời sống,… Dịch vụ du lịch được mở rộng cả trong và ngoài
nước, thu hút mỗi năm từ 1,5 đến 2,5 triệu lượt du khách, trong đó có hàng
trăm ngàn lượt khách quốc tế, doanh thu từ 165 đến 440 tỷ đồng/năm” [40,
tr.13]. Trên thực tế, kinh tế du lịch của tỉnh từng bước khẳng định rõ là ngành
50
kinh tế quan trọng trong nền kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, Đảng bộ cũng
nhận định, kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu: “kinh doanh du lịch của địa
phương vẫn còn kém hiệu quả và có mặt còn xuống cấp”. Trên cơ sở đó,
Đảng bộ đã đặt ra yêu cầu, trong khi phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh, phải
thấu suốt các quan điểm chỉ đạo của Đảng về CNH, HĐH, thấu suốt tinh thần
Chỉ thị 46-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về lãnh đạo đổi mới và
phát triển du lịch trong tình hình mới.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Chủ trương: “Quy hoạch và
đầu tư phát triển mạnh ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của kinh
tế địa phương. Tiếp tục mở rộng du lịch quốc tế, đồng thời tạo cho được tiến
bộ mới trong kinh doanh du lịch nội địa” [40, tr.47]. Đại hội xác định rõ vai
trò của du lịch nội địa: Một mặt, tận dụng những điều kiện sẵn có, mở thêm
nhiều loại hình dịch vụ có khả năng thu hút khách tới du ngoạn và nghỉ dưỡng
dài ngày; mặt khác tập trung xây dựng khách sạn, nhà hàng, đầu tư hiện đại
hóa từng bước các trọng điểm du lịch, hình thành một số cụm du lịch thích
hợp trên địa bàn. Văn kiện Đại hội ghi rõ:
Cần thống nhất nhận thức: xây dựng một số công trình thuộc kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội và phấn đấu tạo cho được một môi trường
văn hóa, xã hội ngày càng lành mạnh chính là cách đầu tư trực tiếp
và có hiệu quả cho ngành du lịch. Sắp xếp lại và kiện toàn doanh
nghiệp Nhà nước; khuyến khích và quản lý tốt các dịch vụ du lịch
nhân dân; phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng mỹ nghệ,
hoa và sinh vật cảnh. Tăng cường quan hệ hợp tác với các địa
phương khác và với các công ty nước ngoài để vừa tranh thủ vốn
đầu tư, vừa khơi thêm luồng khách, phấn đấu đưa mức tăng trưởng
bình quân hàng năm về kinh doanh du lịch trên địa bàn lên 32,5% và
riêng địa phương lên 31,3% (cao hơn trong thời gian 1991 - 1995 là
5,8%) [40, tr.47].
51
Như vậy, đến Đại hội lần này, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu về phát triển kinh tế du lịch đã có những bước phát triển mới, thể
hiện rõ nhận thức mới về ngành kinh tế du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội Đảng bộ Tỉnh, ngày 05 tháng 12 năm
1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Nghị quyết chuyên
đề số 17/NQ-TV về phát triển du lịch đến năm 2000, nhấn mạnh mục tiêu:
“Nâng cao mức tăng trưởng và chất lượng, hoạt động kinh doanh du lịch. Phát
triển đa dạng các loại hình du lịch trên địa bàn: du lịch biển, du lịch văn hóa,
du lịch thể thao, nghỉ dưỡng cuối tuần… nhằm tạo được tiến bộ mới trong
kinh doanh du lịch nội địa; mở rộng dịch vụ du lịch quốc tế” [117, tr.3].
Nghị quyết đã đưa ra các nhiệm vụ chủ yếu nhằm khắc phục những khó
khăn, tồn tại về kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ của ngành du lịch, các
loại hình dịch vụ du lịch chưa đa dạng, kém hấp dẫn, hoạt động của các doanh
nghiệp du lịch quốc doanh kém hiệu quả, quản lý Nhà nước về du lịch còn
hạn chế… Đó là, nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ, các loại hình
kinh doanh du lịch trên địa bàn. Phát triển mạnh các dịch vụ văn hóa, hoạt
động vui chơi, giải trí tại các tuyến, điểm du lịch nhằm thu hút du khách đến
Bà Rịa - Vũng Tàu. Củng cố, sắp xếp doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong
đó cần cổ phần hóa một số doanh nghiệp, khách sạn để phát huy sức mạnh
tổng hợp khai thác hợp lý tài nguyên du lịch, phù hợp với tình hình chung của
đất nước. Đẩy nhanh góp vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư với
nước ngoài, chú trọng các dự án đầu tư theo hình thức BOT hoặc 100% vốn
nước ngoài.
Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cũng đặt ra yêu cầu, nâng cao
nhận thức của cán bộ quản lý, các doanh nghiệp và các đối tác tham gia hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh về tầm quan trọng của phát triển kinh tế du lịch.
Tăng cường năng lực của cơ quan quản lý, phối hợp chặt chẽ với các ngành tổ
52
chức điều tra cơ bản phục vụ phát triển du lịch; quy hoạch phát triển du lịch
những vùng có tiềm năng lợi thế, đảm bảo khai thác tốt tiềm năng, lợi thế tài
nguyên, nhất là tài nguyên nhân văn, tài nguyên biển… cho phát triển du lịch.
Theo đó, các hoạt động du lịch phải được triển khai đồng bộ với việc
ban hành các quy chế, quy định kinh doanh dịch vụ, phân cấp quản lý, đồng
thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động du lịch. Quan tâm công
tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực. Trong đó, bốn nhiệm vụ trước mắt
được Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo là: Củng cố Công ty Du lịch Vũng Tàu;
tiến hành nâng cấp khu du lịch Bãi Sau; thực hiện dự án Công viên - dịch vụ
công cộng Bãi Trước; bổ sung quy định, quy chế về các dịch vụ công cộng,
các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử [117, tr.4].
Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu về phát triển kinh tế du lịch, thể hiện rõ sự quan tâm lãnh đạo, định
hướng, khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch trên địa bàn. Nghị quyết là
văn bản cụ thể hóa kịp thời nhiều nhiệm vụ, giải pháp về phát triển kinh tế du
lịch được Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ tỉnh đề ra. Nội dung Nghị
quyết đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng bộ tỉnh, mở ra một bước tiến mới
phát triển toàn diện kinh tế du lịch.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng bộ tỉnh, với
tinh thần đoàn kết đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu đã ra sức khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi và tiềm năng
sẵn có, thực hiện hoàn thành về cơ bản các nhiệm vụ KT - XH do Đại hội Đảng
bộ tỉnh đề ra. Kinh tế tăng khá, GDP sau 5 năm (tính cả Dầu khí) tăng hai lần:
năm 1995 là 10.759 tỷ đồng; năm 2000 là 21.998 tỷ đồng. GDP bình quân đầu
người tăng từ 1.396 năm 1995 lên 2.438 năm 2000 (không tính dầu khí) tăng từ
512 USD lên 851 USD. Trong đó, ngành kinh tế du lịch từng bước trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn mang nhiều sắc thái đặc trưng của vùng đất lịch sử
truyền thống của Nam Bộ, thu hút ngày càng nhiều khách trong nước và quốc tế.
53
Đánh giá kết quả đạt được của ngành Du lịch, Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ III (01 - 2001) ghi nhận: Dịch vụ du lịch được
nâng cao cả về số lượng và chất lượng; tỷ trọng kinh tế ngoài quốc doanh trong
tổng doanh thu ngoài quốc doanh có xu hướng tăng lên; đầu tư nước ngoài tăng
cao, các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần khá lớn vào việc hiện đại hóa
ngành du lịch và đô thị Vũng Tàu. Tiềm năng, lợi thế du lịch tắm biển, nghỉ
dưỡng, phục hồi sức khỏe đang từng bước được phát huy.
Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát 10 năm (2001 - 2010) của tỉnh: “Đến
năm 2010, Bà Rịa - Vũng Tàu cơ bản trở thành một trong những trung tâm công
nghiệp, du lịch và khai thác hải sản của khu vực và cả nước, một thương cảng
quốc gia và quốc tế” [49, tr.18]; mục tiêu cụ thể tăng trưởng tốc độ bình quân
của ngành du lịch là 10,9% năm. Năm 2000, công tác quy hoạch đã tập trung
triển khai đồng bộ và toàn diện các đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển du
lịch. Tỉnh cũng tập trung quảng bá du lịch mạnh mẽ thông qua việc tham gia
các hội chợ trong nước và khu vực, quảng bá trên các tạp chí chuyên ngành;
đẩy mạnh xúc tiến du lịch, liên doanh liên kết…, tạo cơ sở quan trọng cho đẩy
nhanh phát triển du lịch trong giai đoạn sau. Chủ trương cụ thể đối với ngành
Du lịch được Đại hội xác định rõ: “Du lịch là ngành kinh tế có nhiều tiềm
năng, thế mạnh phát triển. Trong giai đoạn 2001 - 2005 tập trung đầu tư các
dự án phát triển sau: Dự án cáp treo Vũng Tàu, tiếp tục nâng cấp hoàn chỉnh
bãi tắm Thùy Vân, xây dựng khu công viên Bãi Trước, Khu du lịch Hồ Tràm
(Xuyên Mộc), suối nước nóng Bình Châu, khu Kỳ Vân, công viên Bàu Sen,
du lịch sinh thái Côn Đảo” [41, tr.86].
Như vậy, từ khi thành lập tỉnh đến năm 2005, Đảng bộ, chính quyền tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu đã vận dụng đúng đắn chủ trương của Đảng và Chính phủ
vào điều kiện thực tế của địa phương kịp thời, đề ra các chủ trương phát triển du
lịch đúng hướng, có lộ trình và những bước đi phù hợp. Từ việc xác định chủ
trương đến quyết tâm chỉ đạo đều hướng tới mục tiêu phát triển du lịch thành
54
ngành kinh tế mũi nhọn, thành trung tâm du lịch của khu vực và cả nước. Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã đạt một số vấn đề sau:
Một là, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã nhận thức sâu sắc vị trí, tầm
quan trọng của du lịch với sự phát triển kinh tế du lịch của tỉnh;
Hai là, đề ra mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ, cụ thể;
Ba là, xác định hướng phát triển kinh tế du lịch;
Bốn là, huy động mọi tiềm năng, thế mạnh và sức mạnh của cả hệ thống
chính trị để phát triển kinh tế du lịch.
2.3. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH
TẾ DU LỊCH GIAI ĐOẠN (1991 - 2005)
2.3.1. Chỉ đạo phát triển đồng bộ ngành du lịch
Về công tác quản lý phát triển du lịch
Triển khai thực hiện Nghị quyết lần thứ VII của Đảng, ngày 22 tháng 6
năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 45 về đổi mới quản lý và phát
triển du lịch, khẳng định: “Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong
chiến lược phát triển KT - XH của đất nước” [21]. Phát triển kinh tế du lịch sẽ
góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế
khác. Nghị quyết Chính phủ được ban hành thể hiện quyết tâm cao trong quản
lý Nhà nước về du lịch, với phương hướng là nâng cao chất lượng và đa dạng
hóa các sản phẩm du lịch, đưa ngành du lịch phát triển sớm đuổi kịp ngành du
lịch của các nước phát triển trong vùng và trên thế giới.
Trong Nghị quyết còn thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ đối với việc
quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, nhằm mục tiêu hình thành các trung tâm
du lịch với những sản phẩm đặc sắc, thu hút đầu tư cơ sở vật chất hiện đại; tập
trung kiện toàn Tổng cục Du lịch và xúc tiến thành lập các sở du lịch ở các
tỉnh, thành phố. Điều đặc biệt tại Nghị quyết 45 của Chính phủ là đã xác định
Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong ba vùng du lịch trọng điểm của cả nước cần
phải tiến hành việc lập quy hoạch tổng thể.
55
Thực hiện Nghị quyết số 45/CP của Chính phủ và Quyết định số
171/TTg ngày 17 tháng 4 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành
lập một số sở du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo UBND tỉnh
xúc tiến việc thành lập Sở Du lịch, đáp ứng công tác quản lý về mặt Nhà
nước. Sở Du lịch có chức năng, nhiệm vụ tham mưu và quản lý Nhà nước về
các hoạt động du lịch; đồng thời, được giao trách nhiệm quản lý 16 doanh
nghiệp lữ hành, 116 cơ sở lưu trú với 3.760 phòng. Sở có bộ khung cơ cấu tổ
chức khá đầy đủ, bao gồm: Giám đốc và 2 phó giám đốc phụ trách các mảng
công việc chuyên môn về quản lý lữ hành - khách sạn; thanh tra - nghiên cứu
phát triển du lịch; xúc tiến du lịch. Cơ cấu nhân sự gồm 30 cán bộ làm việc tại
các phòng: Quản lý du lịch, Văn phòng sở và Thanh tra, giúp cho các hoạt
động quản lý du lịch đi vào nền nếp.
Năm 1999, Ban Chỉ đạo phát triển du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
được thành lập do một đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban;
thành viên là lãnh đạo các sở, ngành, các địa phương. Ban Chỉ đạo ra đời đã
làm tăng năng lực quản lý Nhà nước, có trách nhiệm giúp UBND tỉnh chỉ đạo
và điều phối các hoạt động du lịch, làm đầu mối phối hợp các sở, ngành, địa
phương trong việc xây dựng và triển khai các chương trình phát triển du lịch.
Triển khai Pháp lệnh Du lịch năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thực
hiện, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tiến hành quán triệt, phổ biến đến các tổ
chức, cá nhân và nhân dân. Sở du lịch tham mưu giúp UBND tỉnh ban hành
các văn bản tăng cường quản lý Nhà nước về du lịch tại các địa phương, như:
Chỉ thị số 27/2000/CT-UB ngày 19 tháng 4 năm 2000 về việc triển khai thực
hiện Chỉ thị số 07/2000/CT-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2000 của Thủ tướng
Chính phủ về giữ gìn trật tự trị an, vệ sinh môi trường tại các điểm tham quan
du lịch. Năm 2001, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Quy chế quản lý hoạt
động kinh doanh du lịch tại các bãi tắm, quy định bắt buộc các cơ sở kinh
56
doanh phải thành lập đội cấp cứu thủy nạn. Sở Du lịch đã xây dựng mạng lưới
cứu hộ du lịch đông nhất trong cả nước.
Năm 2002, UBND tỉnh ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác bảo
vệ tại các điểm du lịch, quy chế hoạt động của ca nô, du thuyền, mô tô trượt
nước, đã giúp quản lý tốt về an ninh trật tự, an toàn cho du khách đến với Bà
Rịa - Vũng Tàu. Ngày 05 tháng 02 năm 2002, UBND tỉnh ban hành quyết
định thành lập Thanh tra Nhà nước về du lịch, du lịch các cấp ra đời đã phát
huy chức năng, nhiệm vụ trong việc đảm bảo hoạt động du lịch ổn định, đúng
luật pháp và tuân thủ các quy định của tỉnh. Đến năm 2005, đã kiểm tra 399
lượt các đơn vị kinh doanh du lịch về tổ chức hoạt động, trật tự trị an, vệ sinh
môi trường, giá cả dịch vụ. Nhờ đó, công tác quản lý nhà nước về du lịch
được tăng cường.
Ngày 15 tháng 4 năm 2004, UBND Tỉnh ban hành quyết định số
1727/2004/QĐ-UB về quy chế quản lý và tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch
tại các bãi tắm thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; tiếp đến, ngày 05-11-2004,
UBND tỉnh ban hành quyết định số 8737/2004/QĐ-UB ban hành Quy chế bảo
vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Các ngành: Du
lịch, Tài nguyên - Môi trường của tỉnh tăng cường nâng cao ý thức tự giác của
doanh nghiệp về công tác đảm bảo trật tự, an toàn và vệ sinh môi trường, đảm
bảo quyền lợi của khách du lịch trong các hoạt động kinh doanh.
Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch từng bước được hoàn thiện, đáp
ứng yêu cầu của tình hình phát triển du lịch trong tỉnh. Năm 2003, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu đã thành lập 5 ban quản lý các khu du lịch tại thành phố Vũng
Tàu, huyện Xuyên Mộc, Long Điền, Đất Đỏ và Côn Đảo trực thuộc UBND
các huyện, thành phố và chịu sự hướng dẫn về chuyên môn của Sở Du lịch.
Các ngành Công an; Lao động, Thương binh và Xã hội; Giao thông vận tải và
các huyện, thành phố triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 07 của Thủ
tướng Chính phủ, Chỉ thị số 27 của UBND tỉnh về đảm bảo vệ sinh môi
57
trường, an ninh trật tự tại các điểm thăm quan du lịch và đề án đảm bảo trật
tự trị an tại các điểm thăm quan, các bãi tắm. Huy động sự tham gia của các
doanh nghiệp trong công tác cấp cứu thủy nạn, xây dựng đội ngũ 158 cứu hộ
viên trên các tuyến biển có bãi tắm.
Chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã mang lại hiệu quả thiết
thực. Các điểm thăm quan, các bãi tắm đã an toàn, vệ sinh, trật tự hơn, tạo sự ổn
định, nề nếp trong kinh doanh du lịch. Công tác quản lý Nhà nước, do đó được
thực hiện đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở. Từ khi thành lập đến năm 2005, các Ban
quản lý các khu du lịch đã tiến hành 563 lượt kiểm tra về trật tự trị an, bình ổn
giá tại các khu du lịch, cấp cứu thủy nạn cho 5.833 lượt người [141, tr.10].
Năm 2004, trước yêu cầu công tác quản lý Nhà nước về du lịch, Sở Du
lịch được phân công bổ sung một số nhiệm vụ, đặc biệt là nhiệm vụ làm đầu
mối thu hút đầu tư du lịch, quản lý quy hoạch và các dự án đầu tư du lịch.
Thực hiện tốt nhiệm vụ này, Sở Du lịch đã thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư từ các
thành phần kinh tế. Đến 2005, toàn tỉnh đã có 69 dự án đầu tư cho du lịch
[121, tr.4]. Hiệp hội du lịch tỉnh được thành lập (2005), đã đóng vai trò quan
trọng quy tụ các doanh nghiệp thành viên, tạo một diễn đàn chung cho các
doanh nghiệp du lịch có vai trò hỗ trợ và phản biện với các cơ quan nhà nước
trong việc hoạch định và thực hiện các chương trình phát triển du lịch.
Về công tác quy hoạch phát triển du lịch
Thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo công tác quy hoạch phát triển
ngành du lịch của Chính phủ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
thường xuyên chỉ đạo thực hiện công tác quy hoạch phát triển du lịch trên địa
bàn, coi đây là lĩnh vực quan trọng, đem lại hiệu quả cho ngành kinh tế du lịch.
Trước mắt, tập trung triển khai, thực hiện Quyết định số 307/QĐ-TTg ngày 24
tháng 5 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010. Trong đó, nhận định Bà Rịa
- Vũng Tàu “là địa bàn đô thị du lịch chủ yếu cần phát triển khu vực du lịch
58
biển để phục vụ cho dân cư tại chỗ, nghỉ cuối tuần của khách du lịch quốc tế
cũng như khách du lịch tham quan trong nước, ở khu vực Thành phố Hồ Chí
Minh và phụ cận” [152, tr.6].
Một số điểm du lịch tiêu biểu khác của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã được
quy hoạch như Bình Châu - Long Hải - Vũng Tàu là địa bàn nghỉ dưỡng giải
trí, Bạch Dinh (Vũng Tàu) là di tích lịch sử,... Vũng Tàu - Long Hải - Côn Đảo.
Các điểm du lịch nay là khu vực được Chính phủ đưa vào diện ưu tiên đầu tư
phát triển du lịch nghỉ cuối tuần, có dự án riêng cho Côn Đảo; quy hoạch lại
khu du lịch Bãi Trước, Bãi Sau thành phố Vũng Tàu.
Như vậy, quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là hoạch
định tổng thể phát triển du lịch của từng địa phương, trong đó Bà Rịa - Vũng
Tàu là địa bàn du lịch được quan tâm của cả nước.
Năm 1996, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ban hành Quy hoạch
Tổng thể phát triển Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 1996 - 2000
[137]. Bám vào 6 nhiệm vụ mang tính chiến lược được Chính phủ đề ra nhằm
đạt được mục tiêu trong quy hoạch: Phát triển nguồn nhân lực; phát triển sản
phẩm du lịch; nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch; giữ gìn, tôn tạo và
phát triển tài nguyên du lịch; môi trường, đầu tư cho du lịch; và chiến lược về
thị trường, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các ngành đánh giá chi tiết thực
trạng các hoạt động du lịch, như số lượng khách, doanh thu, lao động, vốn
đầu tư, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng; tài nguyên du lịch, hiện
trạng môi trường du lịch từ khi thành lập tỉnh, để định hướng xây dựng Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2010 theo ngành và theo lãnh thổ.
Về phát triển theo ngành, trong Chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn
1996 - 2000, chủ trương chỉ đạo, đẩy mạnh phát triển ngành du lịch với tốc độ
cao theo 3 định hướng về các hoạt động kinh doanh du lịch: Phát triển mạnh
ngành du lịch, trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh; phát triển ngành
du lịch thành một ngành công nghiệp trong chiến lược CNH, HĐH; phát triển
59
đa dạng hóa sản phẩm, để đến năm 2000, du lịch trở thành ngành kinh tế quan
trọng và đến năm 2010 trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương.
Mục tiêu Đảng bộ tỉnh đặt ra cho công tác quy hoạch và chỉ đạo là đảm bảo
đến năm 2000, tỷ lệ GDP của du lịch là 4,7% so với GDP trong ngành dịch vụ
32,6%; đến năm 2010 đạt 6,3% so với tổng GDP trong ngành dịch vụ địa
phương đạt 35,6%” [136, tr.41].
Tỉnh tập trung chỉ đạo tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế, khách
nội địa. Giai đoạn 2001 - 2010, khi các dự án về kinh doanh du lịch đi vào hoạt
động, nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của du khách tăng, số lượng khách quốc tế đến
Vũng Tàu giai đoạn này chiếm tới 35 - 40% số khách của Thành phố Hồ Chí
Minh; đến năm 2000, Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ đón gần 2 triệu khách du lịch quốc
tế. Đối với khách nội địa chủ yếu từ Thành phố Hồ Chí Minh và các địa
phương phụ cận là khách nghỉ dưỡng, nghỉ cuối tuần. Giai đoạn 1995 - 2000,
tốc độ tăng trưởng khách du lịch nội địa đạt 7,3 - 10%; giai đoạn 2000 - 2010,
tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 11,5 - 14,6% và đến năm 2010 sẽ đón 6,8
- 10,2 triệu lượt khách [136, tr.46].
Về phát triển theo lãnh thổ, được xác định một số điểm du lịch có ý
nghĩa quốc gia và quốc tế. Tại thành phố Vũng Tàu có các điểm du lịch nổi
bật như: Thích ca Phật Đài, Niết Bàn Tịnh Xá, Khu Đình Thần Thắng Tam,
Linh Sơn Cổ Tự, tượng Chúa Jesu, Bạch Dinh; các bãi biển có giá trị du lịch
như Bãi Sau, Bãi Trước, Bãi Dứa, Bãi Dâu, bãi Nghinh Phong. Một số điểm
nổi bật ở Long Hải, Phước Bửu, Núi Dinh, Côn Đảo… Ngoài ra, còn có một
số điểm du lịch hấp dẫn trong hệ thống các tuyến điểm du lịch. Đối với cụm
du lịch, Quy hoạch đã xác định cụm du lịch thành phố Vũng Tàu và phụ cận,
Long Hải - Phước Hải, Bình Châu - Hồ Cốc, Núi Dinh - Thị Vải, Côn Đảo.
Quy hoạch đến năm 2000 có các dự án: Phát triển trung tâm du lịch thành phố
Vũng Tàu và phụ cận, khu du lịch nghỉ dưỡng cao cấp ở huyện Long Đất, khu
60
lâm viên văn hóa Núi Dinh - Thị Vải, khu du lịch Hồ Tràm - Bình Châu, khu
du lịch - dịch vụ Côn Đảo; dự án đội tàu du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tháng 9 năm 2002, Đề án “Phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” giai
đoạn 2001 - 2005, được ban hành và thực hiện, đã tạo ra một bước chuyển mới,
toàn diện về hoạt động phát triển kinh tế du lịch. Đề án đưa mục tiêu đến năm
2005 xây dựng ngành du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh [141]. Đề
án đã đưa ra 5 nhiệm vụ, 6 giải pháp quan trọng cùng với các lộ trình thực hiện,
đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về du lịch.
Chỉ đạo công tác Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong phát triển kinh
tế nói chung và ngành du lịch nói riêng, ngay từ khi mới thành lập, Đảng bộ
tỉnh đã có chủ trương chỉ đạo xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:
“Kết hợp đào tạo dài hạn, trung hạn và ngắn hạn (cả trong nước và nước
ngoài); nội dung chương trình gồm những vấn đề thiết thực về chính trị,
nghiệp vụ du lịch và an ninh kinh tế”. Chú trọng “Xây dựng đội ngũ cán bộ
làm du lịch có trình độ và kỹ năng nghiệp vụ, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu
phát triển trong tiến trình hội nhập quốc gia, quốc tế” [131, tr.16]. Đồng thời,
có các giải pháp tuyển dụng vào các vị trí làm việc phù hợp.
Theo đó, sự phối hợp giữa các doanh nghiệp du lịch, Sở Du lịch với các
trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Các lớp chuyên đề, tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên trong các
chương trình ngắn hạn kết hợp với các hội nghị, hội thảo đã tạo ra nhiều cơ
hội cho các doanh nghiệp học hỏi lẫn nhau, nâng cao nghiệp vụ du lịch.
Chương trình đào tạo dài hạn đặt trọng tâm đào tạo nhiều nhân viên
trẻ, đội ngũ hướng dẫn viên du lịch, nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ
chuyên môn, đặc biệt là nhân lực trong loại hình du lịch MICE (kết hợp hội
nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty
cho nhân viên, đối tác) là thế mạnh của tỉnh. Đồng thời, khuyến khích nhân
61
viên theo học các chương trình đào tạo tại các trường đại học chuyên về du
lịch, định hướng cho các em học sinh phổ thông thi vào các trường đại học,
cao đẳng có đào tạo về du lịch.
Hoạt động du lịch phát triển, thu hút nguồn nhân lực địa phương khá
lớn. Năm 1993, toàn tỉnh có hơn 5.000 người, trong đó số lao động có trình
độ đại học và trên đại học chiếm trên 15%, lao động có trình độ cao đẳng và
trung cấp chiếm trên 20%. Đến năm 2001, có 4.044 người; năm 2005 có
6.041 người làm việc trong ngành du lịch. Số lao động có trình độ từ công
nhân kỹ thuật đến cao đẳng, đại học từ 2.256 người năm 2001 lên 4.135 người
năm 2005 [141, tr.7]. Công tác đào tạo nguồn nhân lực thực sự là một trong
những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch của tỉnh.
Với chức năng quản lý Nhà nước về du lịch, trong giai đoạn 2001 - 2005,
Sở Du lịch đã tổ chức 47 lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ khách sạn, bảo vệ, cấp
cứu thủy nạn, văn minh giao tiếp cho 1.065 lượt người lao động tại các doanh
nghiệp [89, tr.3]; cử 119 lượt cán bộ công chức đi đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ
quản lý, chính trị, tin học, đại học đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Các doanh
nghiệp du lịch lớn cũng đã chủ động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tại chỗ ngay khi
dự án bắt đầu khởi động và bồi dưỡng định kỳ bằng nhiều hình thức để đảm bảo
cho hoạt động và phát triển doanh nghiệp (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1. Lao động trong ngành du lịch giai đoạn 1993 - 2005
Đơn vị: người
1993 2000 2005
Tổng Lao động 3745 4.260 6.041
Đại học và sau đại học 350 615 1.003
Cao đẳng và trung cấp 385 558 1.083
CN kỹ thuật 2095 1.960 2.049
Lao động khác 95 1.127 1.906
Nguồn: [39, 40, 41].
62
Như vậy, từ năm 1991 đến năm 2005, cùng với công tác quản lý Nhà
nước về du lịch được thực hiện đạt hiệu quả tốt, công tác đào tạo được quan
tâm đúng mức với nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả.
2.3.2. Chỉ đạo từng bƣớc nâng cao chất lƣợng hoạt động các loại
hình du lịch
Căn cứ vào tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu thường xuyên quan tâm chỉ đạo tăng cường các loại hình du lịch,
dịch vụ tại các tuyến, điểm du lịch. Ngay từ Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu lần thứ I (nhiệm kỳ 1992 - 1995), Đảng bộ tỉnh đã xác định tổ chức
“nhiều điểm du lịch với các loại hình phong phú, khai thác có hiệu quả điều
kiện tự nhiên, các di tích lịch sử và các thiết bị hiện có”. Đến nhiệm kỳ 2001 -
2005, Đảng bộ tỉnh chủ trương “khai thác triệt để điều kiện tự nhiên biển,
rừng, núi, đồng thời đầu tư hiện đại dần các trọng điểm du lịch, bao gồm cả
hải đảo”. Tập trung đầu tư mở rộng và đa dạng hóa nhiều loại hình du lịch
mới với những sản phẩm đặc trưng theo 5 cụm trọng điểm đã được xác định
trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2010. Trước hết là thành
phố Vũng Tàu và vùng phụ cận, trọng tâm là bãi tắm Thùy Vân gắn với Cáp
treo - Núi Lớn - Núi Nhỏ, khu công viên dịch vụ Bãi Trước, nối với khu du
lịch nghỉ dưỡng ở Chí Linh, Cửa Lấp.
Phát triển du lịch khu vực Long Hải - Phước Hải nhằm chi phối thị
trường khách giữa Bình Thuận và Vũng Tàu, lấy Khu du lịch Hoa Anh Đào
và di tích lịch sử trên núi Minh Đạm làm trung tâm, vì đây là nơi có điều kiện
tự nhiên đa dạng, cơ sở hạ tầng đồng bộ, từ đó phát triển ra toàn bộ khu vực
Long Hải. Khu vực Bình Châu - Phước Bửu, trọng tâm là suối khoáng nước
nóng Bình Châu, mở rộng ra phía biển Sông Lô, nối các tuyến du lịch đến Hồ
Tràm, Hồ Cốc và khu Bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu. Khu vực
Côn Đảo mà trung tâm là khu vực Phi Yến. Hỗ trợ cho Phi Yến là các đảo
nhỏ lân cận. Tại đây, cần nâng cấp và bổ sung cơ sở vật chất du lịch, tôn tạo
63
các di tích, danh lam thắng cảnh, nhằm phát triển liên hoàn các loại hình du
lịch biển - núi - rừng tại Côn Đảo.
Đến năm 2005, tỉnh đã phát triển khá ổn định các loại hình du lịch như
du lịch sinh thái cảnh quan, du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần, du lịch văn hóa kết
hợp thể thao. Đối với du lịch sinh thái, tập trung đầu tư tại 2 khu vực: Khu
vực bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu và Vườn Quốc gia Côn Đảo.
Du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần là loại hình chủ yếu, cần tạo một môi trường
nghỉ dưỡng đặc trưng của Bà Rịa - Vũng Tàu. Du lịch văn hóa kết hợp thể
thao, xây dựng mô hình khai thác và quản lý hiệu quả các di tích lịch sử, mô
hình lễ hội đặc trưng của vùng đất và nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; tổ
chức loại hình thể thao như leo núi, lặn biển, thả diều, kéo dù trên biển, đua
xe mô tô, tổ chức các giải thể thao chuyên nghiệp...
Trên cơ sở phân bố khu du lịch và các loại hình du lịch, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu nhanh chóng hình thành 5 tuyến du lịch qua các khu du lịch trọng
điểm bằng đường bộ, đường không và đường thủy: Tuyến 1: Vũng Tàu - Côn
Đảo là loại hình thăm quan di tích lịch sử, nghỉ dưỡng, sinh thái và thể thao
biển. Tuyến 2: Vũng Tàu - Long Hải - Bình Châu, loại hình du lịch nghỉ
dưỡng, chữa bệnh và tham quan. Tuyến 3: Bình Châu - Hồ Tràm - Hồ Cốc,
loại hình du lịch sinh thái biển và rừng, du lịch văn hóa kết hợp thể thao.
Tuyến 4: Vũng Tàu - Long Hải - Núi Dinh - Long Sơn, loại hình thăm quan
di tích lịch sử, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng cuối tuần. Và tuyến 5: Vũng Tàu -
Hồ Tràm - Hồ Cốc, loại hình du lịch nghỉ dưỡng thăm quan.
Như vậy, trong giai đoạn 2001 - 2005, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
định hướng chỉ đạo, tập trung nâng cao chất lượng các loại hình kinh doanh,
bao gồm: Loại hình du lịch sinh thái - cảnh quan được triển khai ở bãi tắm
thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu và Vườn Quốc gia Côn Đảo. Loại hình du
lịch truyền thống và phổ biến của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là du lịch nghỉ dưỡng
cuối tuần, thường xuyên thu hút khách từ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
64
miền Đông Nam Bộ đến thăm quan, tắm biển, với thời gian lưu trú ngắn, như:
Biển Đông, Paradise, Thùy Dương, Hồ Cốc. Một số resort cao cấp ven biển
được hình thành như Kỳ Vân, Làng Bình An, Long Hải Beach Resort, Vũng
Tàu Intourco đã thu hút được lượng khách quốc tế và khách nội địa có mức chi
tiêu cao đến tắm biển, nghỉ dưỡng.
Du lịch văn hóa kết hợp thể thao đã được khai thác, tổ chức có hiệu quả
trong việc thăm quan di tích lịch sử, lễ hội, tổ chức giải thể thao leo núi, lặn
biển, thám hiểm trong rừng nguyên sinh, kéo dù trên biển, diều lượn... Các loại
hình du lịch được các doanh nghiệp đầu tư, tổ chức đón và phục vụ khách đạt
hiệu quả. Cho thấy, việc định hướng chiến lược của tỉnh là đúng đắn, phù hợp
với tiềm năng du lịch và khả năng đầu tư của doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu,
thị hiếu của du khách. Đối với các hoạt động văn hóa, tỉnh đã tiến hành tổ chức
các sự kiện văn hóa, thể thao với quy mô lớn nhằm thu hút khách du lịch đến
với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Để nâng cao chất lượng các loại hình, sản phẩm du lịch, Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng cơ sở hạ tầng giao
thông, điện, nước, các công trình vệ sinh công cộng cho các cụm, điểm du
lịch; tăng cường công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, trật tự xã hội, an ninh,
quốc phòng; hạn chế tình trạng gây rối trật tự, ăn xin, trộm cắp, ép giá đối với
du khách; duy trì môi trường tự nhiên và xã hội, chú trọng tôn tạo và bảo vệ,
sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên để phát triển du lịch bền vững.
Trên cơ sở các loại hình du lịch, tỉnh chủ trương khai thác thị trường
khách du lịch trọng điểm trong nước và quốc tế. Một số thị trường du lịch quốc
tế được chú trọng khai thác như Trung Quốc, Lào, Campuchia, các nước Asean,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Úc, khôi phục thị trường truyền thống Nga và
một số nước Đông Âu. Đối với thị trường nội địa, tiếp tục khai thác thị trường
khách Đông Nam Bộ, đồng bằng Sông Cửu Long, chú trọng thị trường khách du
lịch từ Thành phố Hồ Chí Minh.
65
2.3.3. Chỉ đạo tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất phát triển nhanh
các loại hình dịch vụ kinh tế du lịch
Với chủ trương, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất là nền tảng vững chắc
cho hoạt động du lịch, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản khuyến khích
đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước cho các cơ sở vật chất phục vụ du lịch.
Trước hết, tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch khu vực thăm quan,
khu vui chơi giải trí; các khách sạn, nhà hàng, các cơ sở đào tạo đội ngũ nhân
viên, đầu tư kết cấu hạ tầng: giao thông, cấp nước, năng lượng, thông tin.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, chỉ đạo chặt chẽ Ban Cán sự Đảng
UBND tỉnh và các ngành xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu và danh mục các
dự án kêu gọi đầu tư. Quy định các thủ tục hành chính trong đầu tư, hạn chế
những chồng chéo, ách tắc trong quá trình lập thủ tục đầu tư. Tập trung chỉ đạo
việc quản lý và bố trí quỹ đất quy hoạch du lịch, bảo đảm triển khai dự án phù
hợp với chiến lược phát triển du lịch. Tăng cường công tác tư vấn đầu tư du lịch,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhưng cũng phải đánh giá đúng đắn năng lực
tài chính và khả năng thực hiện dự án của nhà đầu tư.
Nhờ đó, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn đã nỗ lực xây
mới và nâng cấp cải tạo cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường du lịch. Năm 1996, toàn tỉnh mới có 65 khách sạn, 88 biệt thự với 1.314
phòng ngủ nội địa và 1.090 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế [136, tr.4]; năm 2005,
có 77 khách sạn, 13 khu du lịch nghỉ dưỡng với 3.628 phòng, trong đó có 48
khách sạn và khu nghỉ dưỡng đã được xếp hạng từ đạt tiêu chuẩn tối thiểu đến
4 sao với 2.312 phòng, trong đó có 14 khách sạn, khu nghỉ dưỡng 3 và 4 sao,
với 1.218 phòng [88, tr.2], số lượng khách sạn được xếp hạng “sao” tăng hơn
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Mạng lưới kinh doanh du lịch
tăng đáng kể. Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 101 doanh nghiệp kinh doanh
du lịch trên địa bàn, trong đó doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc các bộ, ngành
Trung ương có 14 doanh nghiệp, 9 doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý, 12
66
doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài [84, tr.5].
Từ năm 1992 đến năm 1995, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chủ trương
gọi vốn đầu tư xây dựng các khu du lịch Vũng Tàu, Long Hải, Bình Châu; tập
trung công tác đầu tư bảo tồn, tôn tạo các khu di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh,
nhất là khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Đến năm 2005, cơ bản hình
thành 10 khu du lịch gắn với 5 cụm du lịch ưu tiên đầu tư phát triển, trong đó 8
khu du lịch tập trung, 2 khu du lịch quốc gia là khu du lịch Hoa Anh Đào, khu du
lịch sinh thái và di tích lịch sử Côn Đảo. Căn cứ vào tiềm năng, thế mạnh ở từng
khu vực, Đảng bộ tỉnh định hướng phát triển phù hợp với từng khu vực.
Nâng cao việc đầu tư cho phát triển du lịch, nắm bắt được thị hiếu của
nhân dân và thị trường trong điều kiện tình hình mới, Đảng bộ tỉnh tiếp tục
chỉ đạo việc phát triển mạnh mẽ các hoạt động kinh doanh du lịch theo hướng
gắn kết các mô hình: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và lễ hội kết hợp với
nghiên cứu khoa học; tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, khả năng quản
lý và trình độ nghiệp vụ của ngành du lịch trên địa bàn tỉnh.
Các hoạt động đầu tư được Đảng bộ tỉnh quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ việc
quản lý và bố trí quỹ đất quy hoạch du lịch, bảo đảm triển khai dự án phù hợp với
chiến lược phát triển du lịch. Tăng cường công tác tư vấn đầu tư du lịch, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp nhưng cũng phải đánh giá đúng đắn năng lực tài chính
và khả năng thực hiện dự án của nhà đầu tư. Tạo môi trường đầu tư thuận lợi,
thông thoáng; chủ động thu hút hoặc thúc đẩy nhanh việc góp vốn của các đối tác
nước ngoài. Chỉ đạo Sở Du lịch cùng các doanh nghiệp chủ động lập các dự án
tiền khả thi, giới thiệu, quảng bá với các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ năm 1996 đến 2005, có nhiều dự án đầu tư theo hình thức liên doanh
nước ngoài, BOT, 100% vốn nước ngoài. Giai đoạn 1996 - 2000 đã có 5 dự án
đầu tư nước ngoài: Khu du lịch Côn Đảo (290 triệu USD) bằng vốn liên
doanh nước ngoài; khu phức hợp du lịch Chí Linh (300 triệu USD); khu du
lịch paradise (97 triệu USD); khu du lịch Hòn Ngọc Phương Đông (264 triệu
67
USD); khu du lịch Long Hải - Phước Hải - Bình Châu (130 triệu USD) [40,
tr.155]. Giai đoạn 2001 - 2005 có 2 dự án đầu tư bằng ngân sách tỉnh, 2 dự án
do doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư: Khu du lịch Núi Dinh (840 triệu
đồng); khu du lịch Minh Đạm, huyện Đất Đỏ (700 triệu đồng) [41, tr.109].
Tận dụng thế mạnh về tiềm năng tự nhiên và nhân văn, Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo đầu tư mạnh mạnh các loại hình dịch vụ du lịch
vui chơi, giải trí hiện đại nhưng mang dấu ấn văn hóa dân tộc, văn hóa của địa
phương, không trùng lắp với các địa phương khác. Quy hoạch, bố trí các quầy
bán hàng đặc sản tập trung ở các đầu mối giao thông thành điểm dừng chân
mua hàng của du khách.
Trong những năm từ 1993 đến 1997, hoạt động đầu tư phát triển các
dịch vụ du lịch còn hạn chế. Các dịch vụ du lịch văn hóa, hoạt động vui chơi,
giải trí, đầu tư theo lãnh thổ và theo ngành còn chưa hợp lý. Việc tập trung
khai thác khu vực trung tâm, đường giao thông thuận lợi như các bãi biển ở
thành phố Vũng Tàu, Long Hải thuộc huyện Long Điền và các di tích lịch sử
văn hóa lân cận chưa thực sự hiệu quả. Các dự án đầu tư chủ yếu tập trung
vào hệ thống cơ sở lưu trú dọc các bãi biển, rất ít dự án đầu tư vào lĩnh vực
vui chơi, giải trí tổng hợp, thể thao núi - nghỉ dưỡng biển hoặc các danh
thắng, làng nghề… để tăng sự hấp dẫn và thời gian lưu trú của khách.
Khắc phục các hạn chế nêu trên, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo ngành du lịch
phối hợp với các ngành chức năng tổ chức lại các hoạt động dịch vụ du lịch
theo tinh thần Nghị quyết 17-NQ/TV ngày 05-12-1998 của Đảng bộ tỉnh về
phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2000 là “đa dạng hoá các
loại hình, sản phẩm du lịch” để tập trung đầu tư có hiệu quả hơn. Trong đó,
chú trọng đầu tư vào các loại hình vui chơi, giải trí kết hợp với tắm biển và du
lịch sinh thái.
Để thực hiện các dự án, quy hoạch, Đảng bộ tỉnh chủ trương, huy động
nhiều vốn từ phát triển kinh tế của tỉnh, vốn các doanh nghiệp, vốn cổ phần, vốn
68
liên doanh liên kết đầu tư trong nước và nước ngoài vào việc xây dựng các khu
du lịch, điểm du lịch, các công trình văn hóa,… Đến năm 2005, những kết quả
đạt được thể hiện ở một số dự án đã được triển khai như Cáp treo Núi Lớn - Núi
Nhỏ đã hoàn thành giai đoạn 1 và được triển khai hoạt động; Khu du lịch Biển
Đông, thành phố Vũng Tàu và các khu du lịch: Thùy Dương, Bình Châu và khu
du lịch sinh thái biển huyện Côn Đảo… đều được nâng cấp, mở rộng đáp ứng
với nhu cầu tham quan du lịch của khách trong và ngoài nước.
Huy động xã hội hóa trùng tu di tích được thực hiện hiệu quả, nhất là
tại các di tích lịch sử tiêu biểu. Từ đó, giúp cho một số lễ hội lớn được duy trì,
gắn liền với nghề nghiệp truyền thống của cư dân như đánh bắt, nuôi trồng
thủy, hải sản. Ngoài các lễ hội tại các làng nghề truyền thống, các đình, đền
thờ các anh hùng liệt sỹ như lễ hội Đức Thánh Trần, Giỗ tổ Hùng Vương…
được khai thác để phát huy giá trị lịch sử, văn hóa. Các sự kiện văn hóa, thể
thao, các lễ hội tiêu biểu đã thu hút đông đảo khách du lịch đến với tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu. Các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển, sinh thái, du lịch
biển bước đầu được quan tâm chỉ đạo và có xu hướng phát triển tốt. Lượng
khách cả nội địa và quốc tế ngày càng tăng, doanh thu tăng hàng năm, đóng góp
quan trọng cho nền kinh tế của tỉnh (Bảng 2.2).
Bảng 2.2. Kết quả hoạt động du lịch chủ yếu giai đoạn 1993 - 2005
Nội dung ĐVT 1993 2000 2005
Lƣợt khách 1.000 lƣợt 1.620 3.303 5.320
Khách quốc tế - 110 141 220
Khách nội địa - 1.510 3.162 5.100
Doanh thu Tỷ đồng 269 880 889
Nộp NSNN Tỷ đồng 21,36 58 64
Nguồn: [39, 40, 41].
69
Tiểu kết chƣơng 2
Qua 15 gần năm (1991 - 2005), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tập
trung lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch, bước đầu xác lập rõ chức năng,
nhiệm vụ, từng bước khai thác hiệu quả, tiềm năng, thế mạnh du lịch của địa
phương. Kinh tế du lịch của tỉnh, nhờ đó đã đạt được nhiều kết quả đáng
khích lệ, làm cơ sở nền tảng để phát triển trong các giai đoạn sau.
Thông qua quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh đã nhận thức đầy đủ hơn
vai trò và tầm quan trọng của ngành kinh tế du lịch trong đời sống xã hội và
nền kinh tế quốc dân. Du lịch không chỉ là một hoạt động đơn thuần mà là
một ngành kinh tế mang tính tổng hợp, tổng hòa các mối quan hệ, ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh. Từ rất sớm, Đảng bộ
tỉnh đã xác định du lịch là ngành “kinh tế mũi nhọn”. Theo đó, đã ban hành
nhiều chính sách phù hợp, tác động mạnh đến phát triển của ngành du lịch.
Công tác quản lý Nhà nước về kinh tế du lịch được tăng cường. Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch; các đề án phát triển du lịch ở từng giai đoạn
được xây dựng và ban hành có tính khả thi cao. Bước đầu định hình được tính
chất, vai trò và chức năng của từng địa bàn du lịch trên bản đồ tổng thể phát
triển kinh tế du lịch của tỉnh. Loại hình và sản phẩm du lịch đã được Đảng bộ
tỉnh xác định rõ và được xúc tiến đầu tư phát triển. Bước đầu đã có sự liên
kết, hợp tác giữa các địa phương trong tỉnh, giữa các doanh nghiệp trong và
ngoài tỉnh, nâng cao chất lượng dịch vụ, đầu tư đa dạng sản phẩm du lịch.
Nguồn nhân lực và cơ sở vật chất của ngành du lịch từng bước được cải thiện.
Nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng quy mô, hiện đại được hình thành. Môi trường
du lịch, trật tự trị an, đảm bảo an toàn cho du khách tại các tuyến, điểm du
lịch được nâng cao. Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng thể hiện vai trò là
ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu GDP của tỉnh; là điểm đến “văn minh
và thân thiện” của bạn bè trong nước và quốc tế.
70
Tuy còn những khó khăn, bất cập, nhưng với những kết quả đã đạt
được trong giai đoạn 1991 - 2005 đã khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời,
đúng hướng của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng thời, là sự nỗ lực
đóng góp của các tầng lớp nhân dân với tinh thần quyết tâm cao. Qua đó,
năng lực và tư duy lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của Đảng bộ được nâng
lên và đổi mới trên nhiều mặt. Trong đó, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế du lịch với các vấn đề về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an
ninh quốc phòng, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh.
71
Chƣơng 3
ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
3.1. TÌNH HÌNH MỚI VÀ CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA -
VŨNG TÀU ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH (2005 - 2015)
3.1.1. Tình hình mới tác động đến kinh tế du lịch
Năm 2005, tình hình thế giới có nhiều biến động cả về kinh tế, chính trị.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng
cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Xu thế hòa
bình, hợp tác và phát triển là xu thế khách quan, chủ đạo của các quốc gia, các
dân tộc. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là trung tâm phát triển năng
động của kinh tế thế giới. Vai trò trung tâm kết nối của ASEAN trong các
thiết chế khu vực tiếp tục được khẳng định nhưng còn nhiều thách thức.
Trong điều kiện đó, xu hướng phát triển du lịch của thế giới vẫn là sự
gia tăng số lượng khách du lịch và yêu cầu sản phẩm du lịch đạt chất lượng;
xu thế quần chúng hóa thành phần du khách và một số loại hình du lịch mới
như du lịch mạo hiểm được ưa chuộng; xu hướng mở rộng địa bàn du lịch.
Những xu hướng phát triển mới, như: Nhu cầu giải trí, trải nghiệm, học tập để
hoàn thiện bản thân của con người gia tăng, do đó nhu cầu du lịch ngày càng
nhiều hơn. Du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí vẫn chiếm ưu thế
chính. Ở một số nước khu vực, như Châu Á - Thái Bình Dương, du khách có
mục đích thăm viếng, chữa bệnh, tôn giáo nhiều hơn. Du lịch có trách nhiệm
với môi trường ngày càng trở thành xu hướng nổi trội, được quan tâm. Xu
hướng mở rộng địa bàn du lịch, di chuyển mạnh đến khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương tiếp tục tăng. Nhiều tập đoàn du lịch cạnh tranh mạnh mẽ, có sự
liên kết trên diện rộng của các tập đoàn du lịch.
72
Đối với Việt Nam, tình hình chính trị xã hội ổn định. Chính sách ngoại
giao của Việt Nam là độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác
quốc tế. Kinh tế đất nước tiếp tục phát triển theo hướng hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Môi trường đầu tư, kinh
doanh và năng lực cạnh tranh có bước được cải thiện. Khu vực dịch vụ tập
trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức công
nghệ cao được quan tâm, như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông.
So với các nước trong khu vực, đến thời điểm này thì du lịch Việt Nam vẫn
còn nhiều hạn chế, như chưa có khu du lịch mang tầm cỡ quốc tế, sản phẩm du
lịch chất lượng cao chưa nhiều, chất lượng dịch vụ thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật
chưa đồng bộ. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, các
cấp ủy Đảng cần quan tâm hơn đến đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch.
Tuy nhiên, trên thực tế, kinh tế du lịch Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển.
Luồng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam vẫn liên tục tăng, trong đó
luồng khách đến từ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn chiếm tỷ trọng
cao, sau đó là Châu Âu, Bắc Mỹ. Trước những bất ổn chính trị của thế giới,
thì Việt Nam được đánh giá là điểm đến hấp dẫn, an toàn và thân thiện, có
điều kiện thuận lợi thu hút mạnh dòng khách du lịch quốc tế, ngày càng nâng
cao vị trí trên bản đồ du lịch thế giới. Luồng khách du lịch Việt Nam đi du
lịch trong nước và nước ngoài tiếp tục tăng mạnh do đời sống người dân từng
bước được cải thiện, nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng được
nâng lên. Những loại hình du lịch được lựa chọn nhiều là tham quan, nghỉ
dưỡng, tìm hiểu danh lam thắng cảnh, văn hóa, du lịch tín ngưỡng, tâm linh.
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch Việt Nam đã
chủ động, tích cực tăng quy mô, liên kết, liên doanh đáp ứng yêu cầu của quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập. Nước ta sau khi là thành viên của WTO, vừa
là thời cơ vừa là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đầu tư
73
dịch vụ, đa dạng các loại hình du lịch. Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư
nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh, liên kết… được tạo điều kiện phát
triển mạnh, nhiều tập đoàn du lịch đầu tư vào Việt Nam hướng đến phát triển
cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Trên cơ sở đánh giá kết quả 5 năm thực nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, đồng thời tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã nhấn mạnh, việc nắm vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường, nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà
nước, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình sản phẩm kinh doanh có
vai trò quan trọng đối với thành công trong đường lối phát triển kinh tế - xã
hội. Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006), chủ trương, tiếp tục CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế CNH, HĐH.
Đại hội X của Đảng xác định, tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế
quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng
trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7 -
8,2%/năm. Riêng đối với lĩnh vực du lịch, Đại hội chủ trương: “Khuyến khích
đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch, đa dạng
hóa sản phẩm và các loại hình du lịch” [36, tr.201].
Đại hội X của Đảng nhằm vào ưu tiên phát triển và hiện đại hoá các
dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, thương mại, du lịch. Đồng thời, chủ
trương: Xây dựng một số trung tâm du lịch lớn trong nước, gắn kết có hiệu
quả với các trung tâm du lịch lớn của các nước trong khu vực.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC lần thứ 4 diễn ra tại Hội An
(Quảng Nam) từ ngày 15 - 17 tháng 10, trong khuôn khổ năm APEC Việt
Năm 2006, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam ra Tuyên bố Hội An
với chủ đề “Thúc đẩy hợp tác du lịch APEC vì thịnh vượng chung”. Thông
qua Tuyên bố Hội An, giúp cho các cấp ủy Đảng và các tầng lớp nhân dân
74
nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của ngành du lịch đối với đời sống xã hội,
thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng; tăng cường giao lưu văn hóa và thu hẹp
khoảng cách qua việc xây dựng tình hữu nghị giữa các nền kinh tế thành viên
APEC và đối tác; phấn đấu vì hòa bình và hài hòa trên thế giới. Đây là chủ đề
được đánh giá cao, thiết thực góp phần tăng cường hợp tác song phương và đa
phương giữa các nền kinh tế thành viên APEC trên các lĩnh vực: đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực du lịch; tiêu chuẩn hóa dịch vụ và kỹ năng nghề du lịch;
tạo điều kiện đi lại cho khách du lịch với mục đích sớm thực hiện các mục
tiêu chính sách tại Hiến chương Du lịch APEC nói riêng và mục đích Bogor
nói chung; phấn đấu vì một cộng đồng ổn định, an ninh và thịnh vượng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X về một số chủ trương, chính sách lớn đến nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Trong đó, cũng xác định rõ vai trò của du lịch “là ngành kinh tế mũi nhọn”
trong quá trình hội nhập.
Quán triệt chủ trương, phát triển kinh tế du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn là quan điểm được khẳng định xuyên suốt từ Đại hội IX của Đảng.
Đây là quan điểm định hướng lâu dài, là chìa khóa vạn năng để tạo ra các
bước đột phá trong phát triển kinh tế du lịch, cũng như khẳng định vị trí, vai
trò quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân; nhằm đưa nước ta trở thành
trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu từ năm 2010, du lịch Việt
Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01-2011) của Đảng Cộng sản
Việt Nam, tổng kết 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991,
nhận định: Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, KT-XH đang trên đà tăng
trưởng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đại hội chỉ ra những nhiệm
vụ cụ thể, trong đó, coi trọng phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài
chính, ngân hàng, thương mại và du lịch là những ngành có giá trị gia tăng
75
cao. Trong định hướng phát triển kinh tế du lịch, chủ trương của Đảng chỉ rõ:
“Đa dạng hóa các sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng để
đạt tiêu chuẩn quốc tế” [37, tr.117].
Dựa trên những kết quả đạt được, Việt Nam đặt ra mục tiêu đón 7 - 7,5
triệu lượt khách du lịch quốc tế và 36 - 37 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng
thu từ khách du lịch đạt 10 - 11 tỷ USD, đóng góp 5,5 - 6% vào GDP cả nước;
có tổng số 390.000 buồng lưu trú với 30 - 35% đạt chuẩn từ 3 đến 5 sao; tạo ra
2,2 triệu việc làm, trong đó có 620.000 lao động trực tiếp du lịch [110, tr.2].
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
“Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030”, với những nội dung chủ yếu, quan điểm, mục tiêu, giải pháp và
chương trình hành động cụ thể. Quan điểm phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn đã được xác định rõ hơn. Phát triển du lịch đảm bảo gia tăng
nhanh về thu nhập, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế. Phát triển du lịch tạo
động lực phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại…
Tiếp đến, Chính phủ quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu:
“Đến năm 2020, du lịch cơ bản thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên
nghiệp với hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du
lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa
dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới. Đến năm
2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển” [110, tr.2].
Trong Quy hoạch tổng thể, của Chính phủ, Bà Rịa - Vũng Tàu được
xem là tỉnh trọng điểm phát triển kinh tế du lịch gắn với khu du lịch cao cấp:
Long Hải, Phước Hải, Côn Đảo. Ngoài ra, Bình Châu, Phước Bửu, Núi Dinh
là những điểm du lịch tiêu biểu được đề cập trong Quy hoạch, là cơ sở quan
trọng để Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xây dựng quy hoạch du lịch của địa
phương phù hợp du lịch của cả nước.
76
3.1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
lần thứ III, nhiệm kỳ 2001 - 2005, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ Đại hội đề ra. Nhiều mục tiêu quan trọng về phát
triển KT-XH, an ninh, quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị được triển
khai thực hiện có hiệu quả.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ IV (nhiệm kỳ
2005 - 2010) đánh giá cao sự tăng trưởng, phát triển đa dạng của các ngành
kinh tế. Trong đó, doanh thu của ngành dịch vụ qua 5 năm tăng 2,2 lần, tốc độ
tăng 17,1% năm, dịch vụ du lịch phát triển với doanh thu sau 5 năm tăng 1,87
lần, tốc độ tăng 13,29%/năm… Đã hoàn thành 3 dự án: cải tạo bãi tắm Thùy
Vân; Trung tâm thương mại Vũng Tàu và Trung tâm thương mại Ngãi Giao;
khởi công giai đoạn 1 Dự án Cáp treo; phê duyệt quy hoạch chi tiết Khu du
lịch Núi Dinh, Núi Minh Đạm [42, tr.12, 112].
Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm 2006 - 2010 và định hướng đến
2015, xây dựng phát triển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành tỉnh công nghiệp,
mạnh về kinh tế biển, với hệ thống thương cảng quốc gia và quốc tế vào đầu
thời kỳ 2010 - 2015; là một trong những trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du
lịch, hải sản của khu vực và cả nước; nâng cao chất lượng cuộc sống nhân
dân; bảo đảm vững chắc về quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị -
xã hội; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Phát huy thành quả về phát triển kinh tế du lịch, tận dụng tiềm năng, thế
mạnh của địa phương, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục chủ trương chỉ
đạo phát triển du lịch thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, trọng tâm
của tỉnh trong nhiệm kỳ 2005 - 2010: “Đẩy mạnh đầu tư, hình thành đồng bộ
các khu du lịch ở Vũng Tàu; Long Hải; Bình Châu; Hồ Tràm và Hồ Cốc; Núi
Minh Đạm, Núi Dinh và Côn Đảo theo hướng phát triển các loại hình du lịch
nghỉ dưỡng, giải trí, du lịch sinh thái và du lịch lịch sử, văn hóa” [42, tr.28].
77
Trong du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quan tâm chỉ đạo phát
triển các loại hình: Du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, trú đông, du lịch sinh thái và
du lịch văn hóa. Xác định điểm, khu du lịch trọng điểm tại các huyện, thành
phố trên địa bàn tỉnh để tăng cường quy hoạch đầu tư một số địa điểm như:
Vũng Tàu, Long Hải - Phước Hải, Bình Châu - Hồ Cốc - Hồ Tràm, núi Minh
Đạm, núi Dinh và Côn Đảo. Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp
phục vụ cho phát triển du lịch sinh thái. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã
căn cứ phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương để phát huy cao nhất
tiềm năng, lợi thế địa bàn về du lịch: Huyện Côn Đảo phát triển du lịch và
dịch vụ gắn với bảo tồn, tôn tạo khu di tích cách mạng; thành phố Vũng Tàu
là trung tâm du lịch cần phải tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật;
các huyện Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc tận dụng lợi thế ven biển để phát
triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng thích hợp.
Nếu như trước đây, trong định hướng phát triển kinh doanh du lịch
được nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ III
(2000), chỉ mới nhấn mạnh việc đầu tư một số trọng điểm du lịch, khai thác
điều kiện tự nhiên phát triển du lịch, thì đến Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ IV (2005) đã cụ thể hóa trong chỉ đạo đầu tư các
loại hình du lịch, sản phẩm du lịch, quy hoạch các khu du lịch trọng điểm của
từng địa phương. Những giải pháp cụ thể được đề ra là định hướng quan
trọng, tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương trong tỉnh triển khai xây dựng
các nhiệm vụ trọng tâm phát triển nhanh kinh tế du lịch. Điều quan trọng là,
nghị quyết lần này đã nâng tầm nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các ngành, doanh nghiệp về vai trò du lịch đối với sự phát triển KT – XH của
tỉnh, do đó công tác chỉ đạo, quản lý, phát triển du lịch cũng được tăng cường.
Cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, ngày 27 tháng 5 năm 2008,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về phát triển
kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015.
78
Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được, như: Tăng trưởng về doanh thu du lịch
năm 2007 đạt 1.075 tỷ đồng, tăng 528,2 tỷ đồng so với năm 2001, tốc độ tăng
bình quân 7 năm 14,5%/năm; doanh nghiệp về du lịch phát triển, cơ sở vật chất
phục vụ cho du lịch được tăng nhanh, đạt tiêu chuẩn theo các hạng sao, có
84/126 khách sạn, resort đạt tiêu chuẩn tối thiểu đến 4 sao; công tác quản lý
nhà nước trong công tác quy hoạch, công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn
được tập trung chỉ đạo hiệu quả..., Nghị quyết số 05 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đặt mục tiêu đến năm 2015, Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành một trong những
trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và giải trí lớn của cả nước và du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, là cơ sở quan trọng cho định hướng phát
triển ngành Du lịch kể cả ngắn hạn và trung hạn, thể hiện rõ quyết tâm của
Đảng bộ, vừa kiên trì mục tiêu ban đầu, vừa thể hiện tư duy phát triển trong
thời kỳ hội nhập. Có thể nói, đây là nghị quyết vừa toàn diện, vừa cụ thể, là
cơ sở để các cấp, các ngành, các địa phương tập trung phát triển các loại hình
du lịch, cả cao cấp, hiện đại, phù hợp với xu hướng của thị trường du lịch
quốc tế, tạo ra nhiều sản phẩm du lịch đặc sắc, đáp ứng nhu cầu của du khách.
Đến năm 2010, hoạt động kinh tế du lịch đã có những bước khởi sắc,
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ V (nhiệm kỳ 2010 - 2015) tập
trung đánh giá cao và tiếp tục đề ra các biện pháp phát triển. Thực hiện chỉ đạo
của Trung ương và điều kiện của tỉnh, Đại hội đề ra phương hướng phát triển
kinh tế du lịch trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 là:
Xây dựng các loại hình du lịch, các sản phẩm du lịch có tính cạnh
tranh so với các địa phương ven biển khác. Tập trung phát triển loại
hình du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh; du lịch sinh thái; du lịch hội
thảo, sự kiện… Ưu tiên bố trí vốn ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng
ngoài hàng rào các khu du lịch đã được quy hoạch và các dự án du
lịch trọng điểm. Tập trung giải quyết tốt môi trường du lịch bảo đảm
văn minh, an toàn, thân thiện [43, tr.28].
79
Đối với từng địa phương, phát huy tiềm năng, lợi thế xây dựng sản phẩm
du lịch đặc trưng, trọng điểm. Tại địa phương có lợi thế về biển như thành phố
Vũng Tàu, Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc “phát triển hành lang dọc tuyến
đường ven biển Vũng Tàu, Long Hải, Phước Hải, Bình Châu” và “Phát triển
thành phố Vũng Tàu, các đô thị Long Hải, Phước Hải, Hồ Tràm, Bình Châu
thành các đô thị du lịch xanh”; “phát triển Côn Đảo theo hướng xây dựng thành
Khu kinh tế du lịch - dịch vụ chất lượng cao” [42, tr.33].
Mấu chốt quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế du lịch được
Đảng bộ tỉnh xác định là đề ra các giải pháp nâng cao tỷ trọng khách du lịch,
nhất là khách du lịch cao cấp và khách quốc tế trong cơ cấu khách du lịch
chung của tỉnh; đồng thời, tiếp tục chú trọng thu hút khách du lịch nội địa
nghỉ dưỡng cuối tuần đến từ khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long. Bên cạnh đó, ngành du lịch phải chuẩn bị đi trước, đón đầu cơ hội phát
triển cảng biển, dịch vụ logistic, công nghiệp phụ trợ… khi các thương nhân,
người nước ngoài đến Việt Nam làm việc ngày càng nhiều. Tiếp tục tăng
cường, củng cố các hoạt động xúc tiến, liên kết phát triển du lịch trong và
ngoài nước, trong đó chú trọng thu hút khách du lịch quốc tế thông qua việc
ký kết hợp tác với các doanh nghiệp du lịch trong khu vực, như: Lào,
Campuchia, Thái Lan; khai thác tốt chương trình “Bốn quốc gia - một điểm
đến”; đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng cho Côn Đảo để nơi đây thực sự là địa
chỉ du lịch thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chủ trương rà soát, tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án du lịch, nhất là các
dự án đầu tư có quy mô vốn lớn; đẩy mạnh cuộc vận động văn minh thương
mại, xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực trong kinh doanh du lịch nhằm tạo môi
trường tự nhiên và xã hội lành mạnh. Bên cạnh đó, tăng cường tổ chức các sự
kiện văn hoá, thể thao và du lịch để thu hút du khách; đẩy mạnh đầu tư đồng
bộ kết cấu hạ tầng tại các khu du lịch trọng điểm; đầu tư cơ sở hạ tầng kết nối
80
với các vùng dự án và các dự án du lịch; nghiên cứu phát triển các loại hình
du lịch biển, đảo nhằm kết hợp nhiệm vụ kinh tế gắn với quốc phòng…
Như vậy, từ năm 2005 đến năm 2015, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu đã đề ra nhiều chủ trương phát triển kinh tế du lịch. Nghị
quyết, chỉ thị của Đảng bộ tỉnh đã cụ thể hóa sự chỉ đạo của Trung ương
Đảng, Chính phủ phù hợp với điều kiện của tỉnh cũng như thế mạnh của địa
phương, đưa ngành du lịch từ điểm xuất phát thấp với nhiều khó khăn, thách
thức từng bước phát triển. Từ việc xác định tiềm năng, lợi thế, vai trò của du
lịch là ngành kinh tế quan trọng đến xác định du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn là những bước tiến quan trọng trong nhận thức cùng với những
bước đi phù hợp, thể hiện rõ tư duy khoa học của Đảng bộ tỉnh.
3.2. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU CHỈ ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
3.2.1. Đổi mới công tác quản lý nhà nƣớc, xây dựng quy hoạch phát
triển kinh tế du lịch
Về đổi mới công tác quản lý nhà nước phát triển kinh tế du lịch
Luật Du lịch ra đời, đánh dấu bước tiến mới về pháp lý trong công tác
quản lý nhà nước về du lịch. Luật Du lịch quy định 9 nội dung công tác quản
lý nhà nước về du lịch, gồm: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch; xây dựng, ban hành và tổ
chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ
thuật trong hoạt động du lịch; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông
tin về du lịch; tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ; điều tra, đánh giá tài nguyên du
lịch để xây dựng quy hoạch phát triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du
lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch; thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt
động xúc tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài; quy định tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước về du lịch, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc
81
quản lý nhà nước về du lịch; cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt
động du lịch; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về du lịch [73, tr.15].
Trước yêu cầu đổi mới của công tác quản lý nhà nước về du lịch và quy
mô hoạt động du lịch của tỉnh không ngừng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều
sâu, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu tập trung, rà soát, kiện toàn các cơ quan
quản lý về Du lịch, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản lý.
Tháng 5 năm 2008, Sở Du lịch tỉnh được sáp nhập với Sở Văn hóa - Thông
tin, Sở Thể dục Thể thao và bộ phận Gia đình của Ủy ban Dân số Kế hoạch
hóa gia đình thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nhiệm vụ quản lý nhà
nước về du lịch của Sở Du lịch được giữ nguyên. Về nhân sự phục vụ cho
công tác du lịch, ngoài Giám đốc phụ trách chung, khối du lịch có 01 Phó
Giám đốc phụ trách tất cả các mảng công việc. Phòng Quản lý Du lịch trước
đây có 9 biên chế phụ trách các mảng khách sạn, lữ hành, quy hoạch đầu tư,
môi trường và xúc tiến du lịch sau khi sáp nhập có 7 biên chế, các công việc
như văn phòng, tài chính, tổ chức cán bộ, thanh tra, nghiên cứu tổng hợp
được sáp nhập hoặc lồng ghép với các bộ phận khác của Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch. Đối với các huyện, thành phố, phòng Văn hóa - Thông tin
cấp huyện thực hiện quản lý Nhà nước về du lịch và 5 ban quản lý các khu du
lịch trực thuộc UBND các huyện: Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Côn Đảo
và thành phố Vũng Tàu. Theo đó, công tác quản lý Nhà nước về du lịch
thường xuyên đổi mới, đáp ứng với quy mô hoạt động du lịch của tỉnh.
Trên thực tế, kinh tế du lịch là ngành mang tính liên vùng, liên ngành
và xã hội hóa cao nên hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch cũng
mang tính liên ngành, liên vùng rõ rệt. Do yêu cầu chuyên môn, việc quản lý
hoạt động du lịch có nhiều cơ quan đảm nhiệm được thể hiện từ Trung ương
đến địa phương. Đối với xây dựng khách sạn do cơ quan quản lý nhà nước về
xây dựng cấp phép; về vệ sinh an toàn thực phẩm do cơ quan y tế đảm nhiệm;
82
về môi trường du lịch do cơ quan tài nguyên môi trường quản lý; về giá cả,
dịch vụ du lịch do cơ quan công thương quản lý... Sự phân bố tài nguyên du
lịch, kết nối tour, tuyến du lịch thì giữa các địa phương phải phối hợp thực
hiện. Nhận thức rõ tính chất liên ngành của du lịch và tính chất tổng hợp của
ngành kinh tế du lịch, Đảng bộ chỉ đạo chặt chẽ các sở chức năng, tạo điều
kiện triển khai các nhiệm vụ phát triển du lịch. Đặc biệt, chỉ đạo Sở Kế hoạch
và Đầu tư trong việc xem xét, rà soát các dự án đầu tư về du lịch để có hướng
tham mưu UBND tỉnh thực hiện có hiệu quả các dự án.
Đối với việc quản lý giá cả dịch vụ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
phối hợp chặt chẽ với Sở Công thương, Sở Tài chính và UBND các huyện,
thành phố tăng cường công tác đảm bảo trật tự, an toàn tại các tuyến điểm
tham quan, các bãi tắm, giải quyết triệt để tình trạng bán hàng rong vào các
ngày lễ, mùa cao điểm du lịch; tiếp tục bình ổn giá dịch vụ du lịch; phối hợp
các ngành, tham mưu UBND tỉnh ban hành Quy chế về quản lý và tổ chức
kinh doanh dịch vụ du lịch tại các bãi tắm [144]; chấn chỉnh kinh doanh lưu
trú du lịch tại các phòng trọ, nhà nghỉ trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, chỉ đạo các cơ quan quản lý về du
lịch của tỉnh phối hợp với UBND các huyện, thành phố triển khai các văn bản
luật và các quy định khác liên quan đến hoạt động kinh doanh lưu trú cho các
tổ chức, cá nhân kinh doanh phòng trọ, phòng nghỉ trên địa bàn các huyện,
thành phố; kiểm tra hoạt động kinh doanh; chấn chỉnh các tồn tại về giá cả,
trật tự trị an, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm. Công tác giữ gìn vệ sinh
môi trường, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Sở Tài nguyên và
Môi trường, các sở, ban, ngành khác và UBND các huyện tuyên truyền, chấn
chỉnh, xử lý kịp thời, giữ gìn môi trường tại các bãi tắm, khu du lịch. Công tác
thanh tra, kiểm tra các hoạt động về du lịch được thực hiện thông qua thanh
tra chuyên ngành về du lịch hoặc phối hợp liên ngành.
83
Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện thường xuyên hàng năm,
đặc biệt là vào các đợt cao điểm về du lịch như các ngày lễ, Tết, hè... Việc
tiến hành kiểm tra, giám sát có sự phối hợp với các ngành, thành viên về giá
cả dịch vụ, về vệ sinh môi trường, an ninh trật tự... ngành kinh tế du lịch của
tỉnh ngày càng được nâng cao chất lượng, thu hút nhiều lượng khách trong và
ngoài nước. Công tác cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động về
kinh doanh và đầu tư du lịch đã được thực hiện nhanh, đơn giản, công khai,
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các quy
định của pháp luật hiện hành.
Thực hiện sự chỉ đạo chủ trương của Đảng bộ Tỉnh, Ban cán sự Đảng
UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã chỉ đạo kịp thời công tác kiện toàn, củng
cố, nâng cao vai trò, hoạt động của Ban Chỉ đạo phát triển du lịch các cấp.
Nhân sự Ban Chỉ đạo phát triển du lịch cấp tỉnh thường xuyên kiện toàn theo
hướng tinh gọn, bảo đảm hiệu quả hoạt động.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo các huyện, thành
phố phối hợp các sở, ngành hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động du lịch,
như: đầu tư cơ sở hạ tầng, chỉnh trang môi trường, tổ chức các hoạt động văn
hóa, lễ hội…; kiện toàn nhân sự các phòng Văn hóa Thông tin, Ban quản lý
các khu du lịch; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm đảm bảo môi
trường kinh doanh du lịch thuận lợi và đúng pháp luật. Các cấp, các ngành
tăng cường cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu quả vừa tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, vừa đảm bảo chặt chẽ trong quản lý nhà
nước về kinh doanh du lịch.
Đồng thời, chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp chặt chẽ,
với Phòng Văn hóa - Thông tin các huyện, thành phố trong việc phổ biến thực
hiện Luật Du lịch và các nghị định, thông tư hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch về hoạt động lưu trú du lịch, lữ hành, hướng dẫn viên, vận
chuyển khách du lịch…; hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ du lịch, quản lý
84
các hoạt động du lịch; đồng thời, theo dõi tiến độ các dự án đầu tư du lịch. Tổ
chức hội nghị phổ biến các quy định pháp luật về du lịch, tham mưu UBND
tỉnh triển khai Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 8-12-2014 của Chính phủ về
một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới; Chỉ
thị số 14/CT-TTg ngày 02-7-2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
hiệu lực quản lý nhà nước, tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy phát triển
du lịch; hướng dẫn công tác thống kê, báo cáo định kỳ cho các hộ cá thể kinh
doanh cơ sở lưu trú du lịch. Trong công tác đầu tư du lịch, ngành chức năng
cử cán bộ theo dõi tiến độ từng dự án trên địa bàn, định kỳ thống nhất danh
mục dự án đầu tư du lịch, yêu cầu các chủ đầu tư thực hiện chế độ báo cáo
định kỳ tiến độ dự án.
Đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra của Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, các huyện, thành phố đã kịp thời hướng dẫn, chấn chỉnh các
hoạt động kinh doanh du lịch đúng pháp luật, đặc biệt trong hoạt động lữ hành
và đón khách tàu biển; tăng cường kiểm tra công tác cứu hộ bờ biển, vệ sinh
môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và các quy định về niêm yết giá, bán
đúng giá, các hoạt động phục vụ khách: vũ trường, karaoke, quầy bar…
Ban Chỉ đạo phát triển du lịch được kiện toàn, củng cố đã xây dựng 33
chuyên đề và đã có 22 chuyên đề được thực hiện mang lại hiệu quả rõ rệt,
điển hình như: Chuyên đề “Đảm bảo trật tự trị an tại các tuyến điểm tham
quan, các bãi tắm”; “Xây dựng mạng lưới cấp cứu thủy nạn trên các bãi tắm”,
“Đào tạo nguồn nhân lực du lịch”; “Lành mạnh hóa môi trường xã hội tại các
điểm tham quan”... Các chuyên đề được triển khai thực hiện đã góp phần tạo
nên diện mạo mới cho ngành Du lịch, thúc đẩy sự tăng trưởng và củng cố uy
tín, hình ảnh của Ngành. Hiệp hội Du lịch đã nỗ lực cùng với các sở, ngành
thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm phát triển du lịch, thể hiện rõ trên
các lĩnh vực: tuyên truyền, quảng bá du lịch, đảm bảo môi trường du lịch an
toàn, thân thiện, đóng góp công sức, vật chất cho các sự kiện văn hóa - thể
thao - du lịch được tổ chức tại Tỉnh.
85
Tuy nhiên, trên thực tế, khi sáp nhập, công tác quản lý, điều hành du
lịch ngày càng phức tạp hơn do bị chi phối bởi công tác quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực; sự tập trung chuyên sâu cho lĩnh vực du lịch bị phân tán. Công tác
cán bộ, biên chế bộ máy, nhất là ở cấp huyện, thành phố gặp nhiều khó khăn,
bất cập. Theo đó, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện tốt; công
tác đầu tư cũng bị hạn chế. Những tồn tại như: Hiện trạng nguồn lực không
tập trung; hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về du lịch đôi lúc chưa được
toàn diện, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển về du lịch của tỉnh cả về số
lượng và chất lượng là những khó khăn lớn trong công tác lãnh đạo phát triển
kinh tế du lịch của Đảng bộ Tỉnh.
Nhận rõ những mặt hạn chế nêu trên, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
chủ trương thành lập Sở Du lịch trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước
về du lịch từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch, đáp ứng yêu cầu phát triển du
lịch trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ trương đó, sau
này mới được đáp ứng, ngày 16 tháng 01 năm 2017, Sở Du lịch Bà Rịa -
Vũng Tàu chính thức được thành lập và đi vào hoạt động.
Chú trọng công tác quy hoạch
Căn cứ những nội dung cơ bản của kế hoạch và chiến lược phát triển du
lịch đã được Trung ương Đảng xác định, ngày 29-5-2006, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 -
2010 với mục tiêu phấn đấu từ năm 2020, Việt Nam trở thành một trong các
quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực.
Năm 2011, kết thúc thời kỳ 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển du
lịch Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010; sau đó, chiến lược phát triển du lịch đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được phê duyệt với mục tiêu là đến năm
2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn [109, tr.2]. Trên cơ sở
các chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quy hoạch tổng thể phát
86
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Chính
phủ phê duyệt vào năm 2013. Quy hoạch đã vạch ra phát triển 7 vùng du lịch,
41 điểm du lịch quốc gia; 12 đô thị du lịch và một số khu, điểm du lịch quan
trọng khác đã được quy hoạch [110]. Quy hoạch đã xác định vị trí, vai trò và
lợi thế của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xác định
tiềm năng, xác định mục tiêu, dự báo chỉ tiêu và các phương án phát triển du
lịch. Theo đó, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được xem là địa bàn trọng điểm phát
triển du lịch gồm thành phố Vũng Tàu gắn với Long Hải, Phước Hải, Côn
Đảo. 5 điểm du lịch quốc gia, gồm: Vũng Tàu và phụ cận, Long Hải - Phước
Hải; Bình Châu - Hồ Cốc; Núi Dinh - Thị Vải; Côn Đảo
Kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển du lịch của Trung ương đã
tạo cơ sở để tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xây dựng và triển khai thực hiện các quy
hoạch của quốc gia và của tỉnh. Từ năm 2005, nhiều văn bản đã được ban
hành như Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày
27-5-2008 về phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010
và tầm nhìn 2015 [152]; Chương trình hành động của ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu lần thứ V, nhiệm kỳ 2010 - 2015; Kế hoạch hành động từ nay đến
năm 2020 thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 [155] theo Quyết định 2473/QĐ-TTg ngày 30 tháng
12 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện Nghị quyết số 92/NQ-CP
ngày 08-12-2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du
lịch Việt Nam trong thời kỳ mới, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành
động số 28/KH-UBND ngày 24 tháng 4 năm 2015 về đẩy mạnh một số giải
pháp phát triển du lịch tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Chương trình hành động đã kịp
thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đưa ra nhiều giải pháp quan trọng
đưa ngành du lịch của tỉnh thành ngành kinh tế mũi nhọn với tốc độ tăng
trưởng doanh thu du lịch đạt 12,9%/năm. Kế hoạch, chiến lược du lịch Bà Rịa
87
- Vũng Tàu đã xác định rõ hơn vai trò, vị trí của du lịch, về nhiệm vụ, mục
tiêu cụ thể so với giai đoạn trước đó thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh đề ra.
Năm 1996, UBND tỉnh đã ban hành Quy hoạch Tổng thể phát triển
kinh tế Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 1996 - 2000 [137]. Tuy
nhiên, năm 2005, Quy hoạch Tổng thể này đã được điều chỉnh phù hợp với
tình hình mới theo quyết định số 1828/QĐ-UB ngày 13-6-2005 của UBND
tỉnh. Trên cơ sở đó, đến năm 2011, toàn tỉnh đã có 8 quy hoạch chi tiết tỷ lệ
1/2000 các khu du lịch được ban hành. Cụ thể: Khu du lịch Chí Linh - Cửa
Lấp 825 ha; Hoa Anh Đào 240 ha; lâm viên văn hóa Núi Minh Đạm 280 ha;
lâm viên văn hóa Núi Dinh 718,4 ha; khu Du lịch Lộc An Đất Đỏ 265 ha; Bến
Cát - Hồ Tràm 425,3 ha; khu du lịch và dân cư Láng Hàng 330,7 ha; khu du
lịch Thác Hòa Bình 224 ha. Các huyện Xuyên Mộc, Long Điền và thành phố
Vũng Tàu đã hoàn thành và phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
của huyện đến năm 2020. Đặc biệt, đối với Côn Đảo đã được Chính phủ xác
định quan điểm, mục tiêu “phát triển Côn Đảo trở thành khu kinh tế - du lịch
hiện đại, đặc sắc tầm cỡ khu vực và quốc tế”; “phát triển du lịch biển - đảo
chất lượng cao, với những khu du lịch sinh thái đa dạng, hấp dẫn, khu du lịch
văn hóa - di tích lịch sử”. Khu du lịch quốc gia Côn Đảo rất nhiều dự án lớn
mang tầm quốc tế được triển khai đầu tư, xây dựng như: Hotel Resort
Regency Hyatt Côn Đảo; Poulo Condor; khu du lịch nghỉ mát Việt Nga; nghỉ
dưỡng và lướt sóng Condao Shagri-la; sinh thái Bãi Nhát - Bãi Dương….
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Nhằm nâng cao chất lượng công tác tổ chức hoạt động du lịch mang lại
hiệu quả kinh tế, Đảng bộ tỉnh thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu cho các nhiệm vụ, nhất là
các dự án đầu tư đang và sẽ hình thành trong tương lai. Nhiệm vụ Đảng bộ
tỉnh đề ra từ năm 2008 đến năm 2015 là xây dựng và thực hiện kế hoạch đào
tạo nguồn nhân lực cho “đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân viên, người lao
88
động thuộc các doanh nghiệp du lịch trong tỉnh có đủ phẩm chất, kiến thức về
hội nhập, về lịch sử, văn hóa địa phương, pháp luật quốc gia, luật pháp quốc
tế và nghiệp vụ du lịch… Ngoài đào tạo của nhà nước, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tổ chức đào tạo, dạy nghề, thu hút các nhà đầu tư mở trường,
mở ngành đào tạo về du lịch” [121, tr.7].
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thường xuyên quan tâm chỉ
đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác quản lý về du lịch. Hằng năm, có kế hoạch đào tạo nguồn
nhân lực về du lịch cho đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân viên và người lao
động thuộc các doanh nghiệp du lịch trong tỉnh. Từ năm 2005 đến năm 2015,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã mở 20 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch
cho hơn 1.000 học viên là cán bộ quản lý và nhân viên các doanh nghiệp du
lịch, gồm: bồi dưỡng nghiệp vụ lễ tân, hướng dẫn viên và nghiệp vụ lữ hành,
nghiệp vụ quản lý nhà hàng - khách sạn, cấp cứu thủy nạn, bồi dưỡng nghiệp
vụ quản lý doanh nghiệp du lịch, tập huấn công tác bảo vệ môi trường cho cán
bộ xã - phường làm công tác văn hóa, thể thao, du lịch. Tổ chức trên 10 khóa
đào tạo nghiệp vụ cấp cứu thủy nạn cho các học viên đang làm nhiệm vụ cứu
hộ tại các đơn vị kinh doanh bãi tắm, hồ bơi trên địa bàn Tỉnh.
Qua các lớp tập huấn, đào tạo và bồi dưỡng, đội ngũ nhân lực qua đào
tạo của ngành được tăng lên, cơ bản đáp ứng nhu cầu nhân lực cho du lịch của
Tỉnh và cung cấp cho các tỉnh phía Nam.
Đóng góp cho công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, phải kể đến Trường Trung học nghiệp vụ Du lịch Vũng
Tàu, tiền thân là Trường Công nhân kỹ thuật khách sạn do Tổng Cục Du lịch
thành lập từ năm 1975, thực hiện nhiệm vụ đào tạo nhân lực cho ngành du
lịch - khách sạn của cả khu vực Nam Bộ và từng bước khẳng định thương
hiệu trên hệ thống đào tạo của cả nước. Sau hơn 33 năm thành lập, quy mô
đào tạo ngày càng rộng, đa dạng, Trường Trung học nghiệp vụ Du lịch Vũng
89
Tàu chính thức nâng cấp thành trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu.
Trường đã được tỉnh cấp đất xây dựng mở rộng thêm cơ sở 2, đầu tư các
phòng học lý thuyết, thực hành, các trang thiết bị thực hành đạt chuẩn hiện
đại, đáp ứng tốt nhu cầu học tập của học sinh, sinh viên và đảm bảo cho kế
hoạch đào tạo nguồn nhân lực trên diện rộng. Nguồn nhân lực của ngành Du
lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng tăng nhanh. Đến năm 2015, tổng số
nhân lực đang làm việc trong ngành du lịch ước khoảng 16.520 người (tăng
9.288 người so với thời điểm năm 2006).
3.2.2. Phát triển các loại hình du lịch và các sản phẩm du lịch
Đa dạng hóa các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch được Đảng bộ Tỉnh
quan tâm chỉ đạo ngay từ khi thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1991). Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV (2005) nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển du lịch
giai đoạn 2006 - 2010 là “phát triển mạnh các loại hình du lịch nghỉ dưỡng,
giải trí, trú đông, du lịch sinh thái và du lịch văn hóa” [42, tr.32]. Trong quá
trình lãnh đạo, Đảng bộ Tỉnh cụ thể các loại hình du lịch để tập trung đầu tư
phát triển. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V nhiệm kỳ 2010 - 2015
xác định 3 loại hình du lịch tập trung là: loại hình du lịch nghỉ dưỡng, chữa
bệnh; du lịch sinh thái; du lịch hội thảo, sự kiện [42, tr.27]. Đến Đại hội Đảng
bộ lần thứ VI (2015), Đảng bộ Tỉnh xác định nhiệm vụ trước mắt là tập trung
phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển; du lịch hội nghị, hội thảo
(MICE); du lịch sinh thái chất lượng cao; du lịch lịch sử, tâm linh [43, tr.28].
Trên cơ sở loại hình du lịch trọng tâm, Đảng bộ Tỉnh đã nhìn nhận,
đánh giá tiềm năng và lợi thế của các huyện, thành phố để tập trung chỉ đạo
phát triển thành sản phẩm đặc thù, cụ thể là:
Thành phố Vũng Tàu là trung tâm du lịch hội nghị, vui chơi, giải trí; phát
triển thành phố thành đô thị du lịch, dịch vụ xanh, sạch, văn minh với các loại
hình du lịch chủ yếu như: du lịch thăm quan di tích, du lịch ẩm thực, du lịch kết
hợp mua sắm, du lịch giải trí, du lịch hội nghị. Trên thực tế, Thành phố Vũng
90
Tàu triển khai nhiều giải pháp quan trọng chủ yếu phát triển các loại hình du lịch
tương ứng, tập trung xây dựng tour, giới thiệu các điểm thăm quan, trùng tu, tôn
tạo di tích, khai thác tốt Bảo tàng tỉnh, Bảo tàng vũ khí cổ, quảng bá sản phẩm
ẩm thực, xây dựng môi trường du lịch sạch, đẹp, văn minh, an toàn… Xây dựng
thương hiệu và quảng bá cho du lịch thành phố Vũng Tàu bằng thông điệp du
lịch quanh năm dành cho những người trẻ tuổi [91, tr.4].
Huyện Côn Đảo, phát huy lợi thế cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, di tích
lịch sử cấp quốc gia đặc biệt... phát triển loại hình du lịch biển - đảo, du lịch
văn hóa, di tích lịch sử, du lịch sinh thái vườn quốc gia Côn Đảo. Để phát
triển thương hiệu Côn Đảo “Thiên đường của du lịch nghỉ dưỡng và khám
phá” [91, tr.4].
Để triển khai thực hiện chủ trương Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề
ra là đa dạng các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch, các ngành, đơn vị, địa
phương triển khai thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể.
Du lịch văn hóa, vẫn luôn là loại hình du lịch hấp dẫn đối với du khách
và là thế mạnh của tỉnh, bao gồm du lịch lễ hội, tham quan thắng cảnh, du lịch
tín ngưỡng gắn với các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và lễ hội. Di tích
và lễ hội là hai loại hình đan xen, gắn kết không tách rời nhau “di tích là dấu
hiệu truyền thống được đọng lại, kết tinh lại ở dạng cứng, còn lễ hội là cái hồn
chuyền tải truyền thống đến cuộc đời ở dạng mềm, phần mềm” [97, tr.183].
Vì vậy, đầu tư nâng cấp, tôn tạo và khai thác các di tích lịch sử - văn hóa, tôn
giáo, tín ngưỡng gắn với tổ chức lễ hội được Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
chú trọng thực hiện để phục vụ hoạt động kinh tế du lịch.
Đến năm 2015, toàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có 45 di tích lịch sử
được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh và cấp quốc gia. Một số di tích tiêu
biểu như: di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Côn Đảo; di tích cách mạng Căn cứ
Núi Dinh; căn cứ Minh Đạm; trận địa Pháo cổ - Hầm thuỷ lôi Núi Lớn; địa
đạo Long Phước; khu lưu niệm Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Võ Thị
91
Sáu; di tích Bạch Dinh; di tích Nhà Lớn Long Sơn; đình thần Thắng Tam;
dinh Cô Long Hải… Nhiều di tích đã được nâng cấp, tôn tạo và khai thác phát
triển du lịch. Phát huy nguồn ngân sách của Trung ương, ngân sách cấp tỉnh,
huy động xã hội hóa tham gia trùng tu, tôn tạo di tích.
Theo đó, công tác đầu tư nâng cấp, tôn tạo các di tích lịch sử gắn với
các vùng sinh thái được quan tâm, thực hiện bằng nhiều hình thức từ vốn
ngân sách, vận động xã hội hóa, nhằm phục vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu
lịch sử của du khách, qua đó góp phần định hình sản phẩm du lịch tâm linh.
Các di tích đã được trùng tu, nâng cấp như: Trận địa pháo cổ Núi Lớn, Miếu
bà Phi Yến, hệ thống nhà tù Côn Đảo và nhà lớn Long Sơn…, khởi công xây
dựng và đưa vào hoạt động Bảo tàng Côn Đảo và Đền thờ Côn Đảo phục vụ
nhu cầu tham quan của du khách.
Toàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 212 lễ hội lớn nhỏ được tổ chức tại
đình, đền, miếu và cơ sở tôn giáo. Một số lễ hội được duy trì tổ chức với
quy mô lớn nhằm thu hút du khách như Lễ hội nghinh Ông tại tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu tiêu biểu ở Đình Thắng Tam (thành phố Vũng Tàu), Phước Hải,
Phước Tỉnh (Đất Đỏ). Lễ hội Đền Ông Trần - Nhà Lớn Long Sơn thành
phố Vũng Tàu, Lễ hội Dinh Cô, lễ hội Hùng Vương, Đức Thánh Trần...
hằng năm thu hút một lượng lớn khách thập phương, không chỉ ở địa
phương, mà từ các tỉnh, thành trong khu vực miền Đông và Tây Nam Bộ về
tham dự. Đề án bảo tồn và phát huy Nhà cổ tại huyện Long Điền, huyện
Đất Đỏ phục vụ mục tiêu phục vụ văn hóa du lịch; quảng bá, biên soạn, in
ấn, phát hành sách chuyên đề về các di tích phục vụ khách thăm quan du
lịch; thực hiện Đề án thuyết minh các di tích phục vụ cho văn hóa - du lịch
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu... Hệ thống di tích lịch sử - danh lam thắng cảnh và
các lễ hội lớn ở Bà Rịa - Vũng Tàu được phát huy, phát triển trở thành sản
phẩm du lịch, loại hình du lịch văn hóa, lễ hội, tâm linh có hiệu quả.
92
Các loại hình, sản phẩm nghỉ dưỡng biển kết hợp với vui chơi, giải trí
và thể thao đã được một số đơn vị kinh doanh du lịch tổ chức, thu hút du
khách như: ca nô kéo dù, phao chuối, bóng chuyền bãi biển, thả diều, biểu
diễn máy bay mô hình, nhờ đó thương hiệu “du lịch - thể thao biển” của Bà
Rịa - Vũng Tàu thời gian qua đã bước đầu được định hình. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp lữ hành đã chú trọng mở nhiều tour, tuyến mới, hấp dẫn, đặc
biệt là tour dành cho khách tàu biển nhằm thu hút khách du lịch, ổn định và
nâng cao hoạt động trong điều kiện khó khăn chung của nền kinh tế. Đến
tháng 12 năm 2015, toàn tỉnh hiện có 32 doanh nghiệp lữ hành, trong đó có 12
đơn vị lữ hành quốc tế và 20 đơn vị lữ hành nội địa.
Loại hình du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng cao cấp được chú trọng.
Đảng bộ tỉnh tập trung chỉ đạo đầu tư, xây dựng, hoàn thiện cơ sở lưu trú du
lịch sinh thái, đảm bảo phục vụ khách là đối tượng hạng thương gia. Đến
tháng 12 năm 2015, toàn tỉnh đã có 276 cơ sở lưu trú được thẩm định xếp
hạng với 10.948 phòng, trong đó có 4 khách sạn 5 sao với 1.463 phòng (The
Imperial Hotel, Sixsenses Côn Đảo và Hồ Tràm Strip, pullman), 16 khách sạn
4 sao với 2.100 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.336 phòng…
Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã chỉ đạo các sở,
ngành chức năng hướng dẫn, vận động các doanh nghiệp du lịch tiếp tục khai
thác các loại hình du lịch là thế mạnh của tỉnh như nghỉ dưỡng biển cuối tuần,
tham quan các di tích, danh thắng, du lịch hội thảo (MICE), du lịch sinh thái,
nghỉ dưỡng suối khoáng nóng Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, có sự kết hợp
giữa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, bước đầu đã tạo
những sản phẩm đa dạng phục vụ khách du lịch. Các ngành, địa phương đã
duy trì tổ chức các sự kiện Văn hóa, Thể thao và Du lịch thường niên với
những sản phẩm du lịch tầm cỡ quốc tế, quốc gia và khu vực, trở thành những
sản phẩm du lịch đặc trưng của Tỉnh, thu hút đông đảo du khách và nhân dân.
93
Một số đơn vị kinh doanh du lịch đã từng bước nâng cao chất lượng
phục vụ khách, phát triển các loại hình, sản phẩm nghỉ dưỡng biển cao cấp kết
hợp với vui chơi giải trí và thể thao.
Loại hình du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng cao cấp được các nhà đầu tư
nước ngoài đặc biệt quan tâm và trên thực tế, hoạt động của loại hình này rất
có hiệu quả, như: Khu du lịch Camerlina resort, Sanctuary Hồ Tràm,
Vietsovpetro resort, The Imperial Hotel, Sixsenses Côn Đảo, Hồ Tràm Strip
và Pullman... Ngoài ra, còn nhiều dự án du lịch khác đưa vào hoạt động đã
góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tạo ra nhiều sản phẩm du lịch mới
đáp ứng nhu cầu du khách như: loại hình kinh doanh Casino và trò chơi điện
tử có thưởng và thi đấu thể thao tại Sân Golf The Bluffs Ho Tram Strip của
khu du lịch phức hợp Hồ Tràm Strip, mua sắm tại Imperial Plaza, Vũng Tàu
Squar, vui chơi giải trí tại khu du lịch Hồ Mây, ẩm thực tại Chợ Du lịch...
Phát triển các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu,
nâng cao chất lượng các loại hình du lịch, thỏa mãn nhu cầu của du khách.
Các doanh nghiệp du lịch hợp tác, liên kết khai thác thị trường, tổ chức, phục
vụ các đoàn khách lớn đến tổ chức hội thảo, hội nghị, kết hợp nghỉ dưỡng và
vui chơi, giải trí, thăm quan các điểm di tích trên địa bàn tỉnh.
3.2.3. Tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, phát triển cơ sở hạ
tầng và nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ Tỉnh, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu đã chỉ đạo các sở, ngành, các huyện, thành phố trong quá
trình xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành kinh tế trên địa bàn
tỉnh. Đảng bộ tỉnh thành lập nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành về tiến
độ triển khai thực hiện các dự án trên địa bàn tỉnh, qua đó kiên quyết thu hồi
đất đã giao, đã cho thuê đối với các chủ đầu tư không có năng lực triển khai
dự án theo tiến độ cam kết. Đồng thời để khả năng tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư có uy tín tham gia, tạo sự bình đẳng trong quá trình khai thác các dự án
94
du lịch trên địa bàn tỉnh. Cụ thể: năm 2011 thành lập Đoàn thanh tra 8 dự án
du lịch trên địa bàn huyện Xuyên Mộc; năm 2012 thành lập Đoàn kiểm tra 12
dự án du lịch trên địa bàn huyện Xuyên Mộc và Đoàn kiểm tra 42 dự án chậm
triển khai trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, đã phối hợp với cùng các đoàn thanh
tra Bộ Kế hoạch - Đầu tư tiến hành thanh tra hơn 80 dự án bất động sản du
lịch trên địa bàn Tỉnh.
Về thu hút đầu tư, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề ra nhiều nhiệm vụ
đẩy mạnh công tác đầu tư phát triển kinh tế du lịch. Để tạo điều kiện cho du lịch
phát triển, Đảng bộ tập trung chỉ đạo thực hiện quy hoạch tổng thể các ngành
kinh tế, trong đó có quy hoạch các dự án về du lịch dựa trên nguyên tắc “giữa
các dự án kinh tế du lịch và dự án của các ngành kinh tế khác phải quy hoạch
một vùng đệm cách ly, không bố trí dự án của các ngành kinh tế khác (công
nghiệp, thủy sản…) vào vùng đã quy hoạch cho ngành du lịch” [121, tr.5]. Tập
trung huy động tổng lực của các thành phần kinh tế đầu tư phát triển ở các khu
vực địa bàn trọng điểm là thành phố Vũng Tàu, huyện Xuyên Mộc và Côn Đảo.
Chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, thuế, giá đất đai được xây dựng hợp lý.
Tăng cường các biện pháp chuyển vốn đăng ký sang vốn thực hiện. Cải thiện
môi trường đầu tư và cải cách thủ tục hành chính theo hướng bình đẳng, công
khai, minh bạch, đơn giản và ổn định…
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong đầu tư giai đoạn 1991 - 2005,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã đẩy mạnh đầu tư các dự án lớn trong giai đoạn 2005
- 2010 tại các địa phương, nhằm hình thành các điểm, vùng du lịch có cơ sở vật
chất khang trang, hiện đại, như: Núi Minh Đạm, Núi Dinh; Láng Hàng - Bình
Châu; Chí Linh - Cửa Lấp; Hoa Anh Đào, Thác Hòa Bình; Khu du lịch sinh thái
vườn Quốc gia Côn Đảo; khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu. Thu
hút vốn đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án du lịch lớn như vườn thú Safari
tại Hồ Linh, khu du lịch Atlantic; Trung tâm vui chơi và giải trí liên hợp tại Bãi
Trước; Khu du lịch Hồ Tràm, Hồ Cốc, Lộc An… Đầu tư phát triển đồng bộ 5
95
khu du lịch ở Vũng Tàu; Long Hải - Phước Hải; Bình Châu - Hồ Cốc - Hồ
Tràm; Núi Minh Đạm - Núi Dinh và Côn Đảo.
Huyện Côn Đảo được Trung ương và Đảng bộ tỉnh quan tâm trong quy
hoạch tổng phát triển KT - XH Côn Đảo: kinh tế - du lịch - dịch vụ chất lượng
cao thành mục tiêu trọng tâm. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chủ trương từ
2005 - 2010, tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư xây dựng cảng du lịch
tại Vịnh Côn Sơn, các bến vận chuyển hành khách trên các đảo; xây dựng hạ
tầng kỹ thuật khu du lịch sinh thái Vườn quốc gia Côn Đảo. Tiếp tục thực hiện
các dự án đầu tư nước ngoài như Ngọc Trai Côn Đảo; Côn Đảo resort…
Hợp tác quốc tế phát triển du lịch là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm và cũng là giải pháp tích cực, luôn được Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
chỉ đạo thực hiện trong các nhiệm kỳ đại hội. Giai đoạn 2001 - 2005 chỉ có 2
dự án hợp tác quốc tế đầu tư bằng nguồn vốn doanh nghiệp trong và ngoài
nước, là khu du lịch Núi Dinh, Khu du lịch Minh Đạm, đến giai đoạn (2006 -
2010), số lượng các dự án đầu tư nước ngoài về lĩnh vực du lịch là 14 dự án,
nhiều dự án huy động số vốn lớn, như: Khu du lịch nghỉ mát Saigon Atlantis
(277 triệu USD); dự án Vườn thú hoang dã Safari - huyện Xuyên Mộc (180
triệu USD); dự án khách sạn 10B Vũng Tàu (30 triệu USD) [41, tr.109].
Đến tháng 12 năm 2015, trên địa bàn toàn tỉnh có 156 dự án đầu tư du
lịch, với tổng diện tích là 3.446,5 ha, tổng số vốn đăng ký đầu tư là 35.123,9 tỷ
đồng và 10.758 triệu USD, trong đó 18 dự án đầu tư nước ngoài, tổng diện tích
1.272,1 ha, tổng vốn thực hiện là 742,3 triệu USD, đạt 6,92% trên tổng vốn đăng
ký. Ngoài 156 dự án, còn 42 dự án du lịch trên đất lâm nghiệp với tổng diện tích
là 3.334,6 ha; tổng số vốn đăng ký đầu tư là 12.534,2 tỷ đồng [135, tr.5, 6].
Hệ thống cơ sở hạ tầng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
ngành du lịch, là đòn bẩy để thu hút khách du lịch. Nếu yếu kém về chất lượng
sẽ hạn chế khả năng thu hút khách du lịch và hiệu quả kinh doanh. Tại các khu
du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chủ trương khuyến khích các thành
96
phần kinh tế đầu tư, đổi mới phương tiện có chất lượng tốt hơn, đảm bảo được
yêu cầu kỹ thuật và an toàn về mọi mặt; xúc tiến việc nâng cấp sân bay Cỏ Ống,
huyện Côn Đảo, huy động vốn hoặc liên doanh với nước ngoài để mua thêm tàu
khách đạt tiêu chuẩn nhằm cải thiện cơ bản việc đi lại từ đất liền ra Côn Đảo.
Về đường bộ, Đảng bộ tập chung chỉ đạo linh hoạt trong các chính sách
đầu tư nâng cấp các tuyến đường chính, như quốc lộ 51 đi Biên Hòa - Vũng
Tàu, quốc lộ 56 đi Bà Rịa - Long Khánh, quốc lộ 55 đi Xuyên Mộc - Hàm
Tân - Phan Thiết; các tuyến đường 51A, 51B, 51C…, tạo điều kiện cho nhân
dân và du khách đến Bà Rịa - Vũng Tàu dễ dàng và thuận tiện.
Về đường thủy, Đảng bộ Tỉnh chỉ đạo tận dụng các tuyến sông lớn:
sông Thị Vải, sông Dinh, sông Ray và các rạch lớn có thể khai thác vận tải
thủy phục vụ du lịch. Các tuyến sông trên địa bàn Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều
thuận lợi để phát triển hệ thống giao thông thủy và cảng biển với quy mô lớn
và hiện đại. Trên thực tế, các tuyến giao thông bằng đường thủy từ Vũng Tàu
đến Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu - Cần Giờ, Vũng Tàu - Côn Đảo,
Côn Đảo - Cần Thơ, Côn Đảo - Sóc Trăng luôn được duy trì đều đặn và tần
suất ngày càng cao thu hút nhiều khách du lịch. Bên cạnh sông, rạch, hệ thống
cảng biển trên sông Thị Vải có thể đón tàu hàng gần 200.000 tấn và các loại
tàu khách, tàu du lịch quốc tế. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo tập trung mọi nguồn lực
đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng giao thông kết nối phục vụ cho hoạt động
của các cảng; đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thủ tục hải
quan cho tàu ra vào cảng; quyết tâm xây dựng hệ thống cảng Cái Mép - Thị
Vải trở thành thương hiệu cảng nước sâu uy tín, là điểm đến lý tưởng đối với
tất cả các hãng tàu trên thế giới, là cơ hội để khách đến du lịch Bà Rịa - Vũng
Tàu ngày càng nhiều hơn.
Phát huy lợi thế các sân bay (sân bay Vũng Tàu và sân bay Cỏ Ống,
Côn Đảo), Đảng bộ chỉ đạo tận dụng khả năng có thể phục vụ cho vận chuyển
hành khách đi Côn Đảo và các tour du lịch đặc biệt. Sân bay Cỏ Ống cách
97
Vũng Tàu khoảng 200 km đường biển, từ trung tâm thị trấn Côn Đảo đến sân
bay cách khoảng 15 km về phía Bắc. Năm 2007, đường băng và nhà ga được
nâng cấp đủ điều kiện phục 2 chuyến bay du lịch trong ngày, từng bước tăng
số lượng chuyến bay khai thác phát triển du lịch, nhất là vào những ngày cuối
tuần, có hôm 4 - 6 chuyến bay.
Năm 2013, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã chỉ đạo
Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các ngành liên quan tiến hành rà soát tổng
thể các dự án trên địa bàn tỉnh, đồng thời xây dựng phương án xử lý các dự án
chậm triển khai báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Trong năm 2014, căn cứ
phương án xử lý dự án chậm triển khai đã được phê duyệt, UBND tỉnh đã xem
xét, ra quyết định thu hồi các dự án về du lịch không triển khai đúng theo quy
định và thực hiện các giải pháp tháo gỡ vướng mắc và xử lý sau thu hồi dự án.
Năm 2015, tỉnh thành lập Đoàn Thanh tra liên ngành, thanh tra tình hình thực
hiện 3 dự án có liên quan đến đất nhận chuyển giao từ Ngân hàng Công thương.
Đến hết năm 2015, toàn tỉnh có 36 dự án phát triển du lịch bị thu hồi.
Mặc dù ảnh hưởng kinh tế đất nước và trong tỉnh gặp nhiều khó khăn
do lạm phát, tỷ giá ngoại tệ và lãi suất tín dụng, khủng hoảng tài chính, tiền tệ
thế giới năm 2008 và 2009, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu ngành du lịch,
nhưng với sự chỉ đạo kịp thời của Tỉnh ủy, Ban Cán sự đảng UBND tỉnh Bà
Rịa - Vũng và các sở, ngành, chính quyền các cấp, cùng với sự nỗ lực của các
doanh nghiệp du lịch, kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2005 đến
2015 đạt được kết quả khá toàn diện, tăng trưởng đạt 18%/năm.
3.2.4. Xây dựng môi trƣờng du lịch văn minh, hiện đại; tăng cƣờng
quảng bá, xúc tiến du lịch
Về công tác bảo vệ môi trường tự nhiên
Xác định rõ vệ sinh môi trường, giữ gìn trật tự trị an, ứng xử văn minh
có tầm quan trọng trong việc duy trì, phát triển du lịch trên địa bàn, Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo các ngành, đơn vị triển khai hiệu quả các
98
nhiệm vụ, giải pháp về bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển bền vững du
lịch của tỉnh, nhất là trong điều kiện du lịch hội nhập ngày càng cao.
UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Quy chế bảo vệ môi trường
trong lĩnh vực du lịch, đồng thời chỉ đạo các ngành chức năng lập kế hoạch
khảo sát, đánh giá tác động môi trường tại các khu du lịch trọng điểm, đề ra
các biện pháp hợp lý nhằm quản lý các nguồn tài nguyên du lịch. Hàng năm,
các ngành, như: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Công an tỉnh; Sở Tài chính;
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội và các ngành liên quan, UBND các địa
phương, thông qua Ban Chỉ đạo phát triển Du lịch, Ban Chỉ đạo bình ổn giá
và các đoàn kiểm tra liên ngành trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ,
kiểm tra các đơn vị kinh doanh du lịch đảm bảo trật tự, vệ sinh môi trường tại
các điểm tham quan, các khu du lịch. Đặc biệt, công tác kiểm tra được siết
chặt trong các ngày cao điểm diễn ra các sự kiện, lễ hội, các ngày nghỉ lễ, Tết
và nghỉ cuối tuần.
Ngày 15 tháng 4 năm 2004, Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
ban hành kèm theo Quết định số 727/2004/QĐ-UB Quy chế quản lý và kinh
doanh du lịch tại các bãi tắm, đã tạo điều kiện cho các bãi tắm thường xuyên
duy trì lực lượng bảo vệ, cứu hộ bãi tắm và hồ bơi, nhằm đảm bảo an toàn cho
du khách. Các đơn vị kinh doanh du lịch đã có ý thức đảm bảo an toàn và môi
trường tự nhiên sạch đẹp là yếu tố quan trọng để giữ uy tín với du khách. Xác
định tầm quan trọng của môi trường tự nhiên, xã hội đối với ngành kinh tế du
lịch, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh đã chỉ đạo Công an tỉnh phối hợp ngành
Công Thương; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Tài chính; Lao động, Thương
binh và xã hội; UBND các huyện, thành phố triển khai nhiều giải pháp cải
thiện môi trường tự nhiên và xã hội để phục vụ du lịch.
Ngày 12 tháng 6 năm 2013, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành
Chỉ thị số 17/CT-UBND về tăng cường công tác đảm bảo trật tự công cộng,
trật tự đô thị và trật tự trị an tại các khu du lịch trên địa bàn tỉnh Bà Rịa -
99
Vũng Tàu, với mục đích đảm bảo an toàn cho du khách và xây dựng môi
trường văn minh trong du lịch. UBND Tỉnh cũng đồng thời chỉ đạo ngành
Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng kế hoạch tăng cường công tác tuyên
truyền nhằm nâng cao nhận thức và ý thức hành động của cộng đồng dân cư,
doanh nghiệp và du khách khi tham gia các hoạt động và ứng xử nơi công
cộng; phối hợp với các sở, ngành, các huyện, thành phố tích cực xử lý tình
trạng chèo kéo, đeo bám khách du lịch, nhất là trên địa bàn thành phố Vũng
Tàu, góp phần xây dựng môi trường du lịch an toàn và thân thiện, thu hút du
khách đến các điểm du lịch của tỉnh ngày càng nhiều hơn.
Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo Ban Chỉ đạo
phát triển Du lịch, Ban Chỉ đạo bình ổn giá của tỉnh thành lập các đoàn kiểm
tra liên ngành kiểm tra các đơn vị kinh doanh du lịch nhằm đảm bảo trật tự trị
an, vệ sinh môi trường tại các điểm tham quan, các khu du lịch; chỉ đạo sở
Công Thương, UBND các huyện, thành phố quy hoạch các khu vực kinh
doanh, đặt biển cấm bán hàng rong gây mất trật tự và mỹ quan đô thị trên các
tuyến đường chính, tuyến đường dẫn đến các khu du lịch, các bãi tắm, tăng
cường công tác tuyên truyền, vận động đến các khu dân cư, kết hợp kiểm tra,
xử lý vi phạm. Nhờ đó, đã giảm được số người bán hàng rong, chèo kéo
khách gây mất mỹ quan đô thị và phản cảm trong du lịch.
Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo UBND các huyện, thành phố nâng
cao vai trò Ban Quản lý các khu du lịch, thường xuyên duy trì lực lượng bảo
vệ, cứu hộ bãi tắm và hồ bơi, nhằm đảm bảo an toàn cho du khách. Các đơn
vị kinh doanh du lịch cam kết đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường sạch đẹp,
phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan tuân thủ đúng quy chế quản lý vệ
sinh môi trường, an ninh trật tự tại các bãi tắm. Ban Quản lý các khu du lịch
đã thực hiện tốt chức năng quản lý môi trường du lịch ở các điểm, khu du
lịch, hướng dẫn, hỗ trợ cho các khu du lịch trong công tác cứu hộ và trật tự trị
an, vệ sinh môi trường, nhất là trong dịp lễ, tết, các sự kiện lớn của đất nước.
100
Bên cạnh đó, Đảng bộ Tỉnh thường xuyên chỉ đạo công tác giáo dục -
truyền thông bảo vệ môi trường, không ngừng nâng cao nhận thức các doanh
nghiệp du lịch, cộng đồng dân cư địa phương và du khách. Ban Cán sự Đảng
UBND tỉnh chỉ đạo Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp Sở Tài nguyên
và Môi trường và UBND các huyện, thành phố tổ chức tuyên truyền, vận động
các doanh nghiệp tham gia hưởng ứng các hoạt động bảo vệ môi trường, như:
khai thông cống rãnh, hệ thống thoát nước, hố gas, thu nhặt rác tại bãi biển, vệ
sinh khuôn viên, trồng cây… nhân kỷ niệm các ngày về môi trường, như: ngày
Môi trường thế giới; Chiến dịch làm cho Thế giới sạch hơn… vẽ tranh áp phích
chủ đề về bảo vệ môi trường, tổ chức tuyên truyền lưu động, phát tờ rơi tuyên
truyền, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng.
Nhờ chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ Tỉnh, sự hưởng ứng của các ngành,
địa phương ngày càng rộng rãi, công tác đảm bảo trật tự, trị an trong kinh
doanh du lịch, môi trường du lịch, đã có nhiều chuyển biến tốt. Du lịch Bà
Rịa - Vũng Tàu ngày càng văn minh, hiện đại. Các khu du lịch từ 3 sao trở lên
đã chú trọng công tác xử lý nước thải, rác thải đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra
môi trường theo đúng quy định; hệ thống cây xanh, sân vườn được đầu tư
công phu, tạo môi trường trong lành, sạch đẹp; giá phòng khách sạn và giá
dịch vụ ăn uống ổn định, hiện tượng nâng giá phòng tùy tiện trong các ngày
cao điểm giảm dần.
Tại thành phố Vũng Tàu, việc bảo vệ môi trường biển được coi là một
trong các ưu tiên hàng đầu, với sự vào cuộc rốt ráo của các cơ quan chức
năng. Thành phố đã áp dụng hiệu quả các biện pháp truyền thông, đẩy mạnh
tuyên truyền đến người dân và du khách không xả rác bừa bãi tại các bãi tắm,
khu du lịch; triển khai nhiều biện pháp, như: tổ chức thu gom rác thải tại bãi
biển, vỉa hè, công viên; cắm các biển báo kêu gọi người dân không xả, vứt rác
bừa bãi; đồng thời, công khai các mức xử phạt đối với các hành động xả rác
bừa bãi nơi công cộng, bước đầu đã thu được kết quả tích cực.
101
Nhờ đó, nhận thức pháp luật, ý thức trách nhiệm của các cấp chính
quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân và cộng đồng dân cư
trong việc bảo vệ môi trường được nâng cao. Thành phố Vũng Tàu ngày càng
được xây dựng là thành phố du lịch “xanh, sạch, đẹp”.
Tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến đầu tư
Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của tỉnh và được Đảng bộ Tỉnh quan tâm chỉ đạo thường xuyên nhằm
nâng cao hơn nữa uy tín, hình ảnh của du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu trên thị
trường trong nước và quốc tế. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo: “Tăng thêm kinh phí đầu
tư từ nguồn vốn ngân sách cho công tác xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá hình
ảnh du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu. Huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp du
lịch thông qua Hiệp hội du lịch và mở rộng các kênh thông tin để tuyên truyền
quảng bá các sản phẩm du lịch, loại hình du lịch của doanh nghiệp” [123, tr.7]
và sự cần thiết phải xây dựng chiến lược marketing du lịch và quảng bá
thương hiệu du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trong đó, tập trung chỉ đạo ngành Du lịch kêu gọi xúc tiến đầu tư, xây
dựng hệ thống thông tin dữ liệu các dự án đầu tư, các chính sách ưu đãi đầu tư
về du lịch. Chỉ đạo công tác tư vấn đầu tư để đánh giá đúng năng lực tài chính
và khả năng thực hiện dự án của các nhà đầu tư. Nhiều hình thức tuyên truyền
quảng bá được thực hiện hiệu quả. Nhiều hoạt động quảng bá thường xuyên
được triển khai trên các tờ báo, tạp chí lớn, các phương tiện truyền thông của
Trung ương và của tỉnh, vừa nhằm hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá thương hiệu,
vừa làm phong phú lượng thông tin về du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
Các ấn phẩm tuyên truyền quảng bá du lịch được đầu tư có chiều sâu,
có chất lượng, được thể hiện bằng nhiều ngôn ngữ nhằm tiếp cận được với
nhiều thị trường khách du lịch như: Sách Cẩm nang Du lịch bằng tiếng Anh,
Pháp, Nga, Hàn, Nhật, Hoa; bản đồ du lịch song ngữ Việt – Anh; đĩa DVD tư
liệu “Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu - hội nhập và phát triển” bằng tiếng Việt và
102
phụ đề tiếng Anh. Các website của tỉnh, đặc biệt là Website du lịch Bà Rịa -
Vũng Tàu thường xuyên được cập nhật thông tin, có hàng ngàn lượt truy cập
mỗi tháng là một kênh thông tin hiệu quả về hoạt động du lịch.
Một số hội chợ, hội thảo du lịch được tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thường
xuyên tham gia, như: Hội chợ Thương mại - Du lịch ở Đà Nẵng, Nha Trang;
Ngày hội Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh; Hội chợ Du lịch Quốc tế ITE…
Tại các hội chợ, ngành du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu đã triển khai nhiều hoạt
động truyền thông, quảng bá hình ảnh, giao dịch, gặp gỡ và ký kết hợp tác với
các đối tác lữ hành, khách sạn trong và ngoài nước, nhiều doanh nghiệp du
lịch đã tiến hành ký các hợp đồng nguyên tắc với các đối tác, liên kết, mở
rộng thị trường và quảng bá nhiều loại hình dịch vụ.
Có thể nói trong giai đoạn này du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển khá
toàn diện từ tăng cường quảng bá, xúc tiến đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đến đa dạng hóa các sản phẩm du lịch... đã thu được nhiều kết quả
đáng khích lệ (Xem bảng 3.1).
Bảng 3.1. Kết quả đạt đƣợc qua các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2005 - 2015
Nội dung ĐVT 2005 2010 2015
Lƣợt khách 1.000
lƣợt
5.320 8.435 15.538
Khách quốc tế - 220 320 558
Khách nội địa - 5.100 8.115 14.980
Doanh thu Tỷ đồng 889 1.782 5.597
Nộp NSNN Tỷ đồng 64 120 378
Nguồn: [23, 34, 35].
Trong hợp tác du lịch, tỉnh thường xuyên tổ chức công tác quảng bá,
xúc tiến du lịch, chủ động hợp tác với các tỉnh Đông Nam Bộ, đồng bằng
sông Cửu Long trong hoạt động phát triển du lịch. Năm 2013, đoàn công tác
103
với sự tham gia của Hiệp hội Du lịch, các doanh nghiệp Lữ hành xúc tiến du
lịch tại các tỉnh Tây Ninh, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh và Bình
Thuận, ký kết hợp tác phát triển với các tỉnh bạn, nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp giữa các địa phương liên kết, phát triển sản phẩm.
Hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch nước ngoài thực hiện có hiệu quả.
Năm 2010, tỉnh tổ chức chuyến thăm quan, khảo sát thị trường du lịch
Campuchia và đã đi đến thỏa thuận hợp tác phát triển du lịch giữa thành phố
Phnompenh, thành phố Siemreap với Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Năm 2014 tổ
chức chuyến thăm quan, khảo sát thị trường du lịch tại nước bạn Lào. Nhân
các sự kiện kỷ niệm quan hệ ngoại giao với các nước, tỉnh phối hợp quảng bá
hình ảnh du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu như sự kiện “Gặp gỡ Việt - Nhật” tổ chức
tại Tokyo - Nhật Bản vào tháng 9 năm 2012; kỷ niệm 20 năm quan hệ hữu
nghị “Việt - Hàn” tại thành phố Pohang - Hàn Quốc…
Nhiều hội thảo, tìm giải pháp về nâng cao chất lượng, dịch vụ, sản
phẩm du lịch trong tình hình mới được tỉnh chủ động thực hiện, như các hội
thảo: “Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế”; “Nâng cao chất lượng dịch
vụ du lịch nội địa”; “Giải pháp thu hút khách du lịch Nhật Bản đến Bà Rịa -
Vũng Tàu”; “Công tác thuyết minh tại các di tích - thực trạng và giải pháp”;
“Tìm kiếm ý tưởng thiết kế và sản xuất quà tặng lưu niệm phục vụ khách du
lịch”... Một số chương trình của tỉnh được triển khai hàng năm như Chương
trình “Những địa chỉ tin cậy của Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu”; chương trình
hành động “Ấn tượng Việt Nam”; “Kích Cầu Du lịch”, chương trình quảng
bá, giảm giá, khuyến mại khách sạn từ 3 đến 5 sao trên địa bàn tỉnh nhằm
kích cầu du lịch nội địa và thu hút khách du lịch quốc tế.
104
Tiểu kết chƣơng 3
Từ năm 2005, bối cảnh quốc tế, trong nước có nhiều diễn biến với
những thời cơ và thách thức đan xen nhau. Trong đó, thời cơ hội nhập, xu
hướng phát triển của thời đại, đặc biệt mức sống của người dân được nâng lên
là những cơ hội tốt cho kinh tế du lịch phát triển… Nhìn nhận, đánh giá đúng
thực trạng tình hình, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có nhiều chủ trương
đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, lãnh đạo phát triển
kinh tế du lịch ngày càng có hiệu quả.
Từ việc xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng ở Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ IV, đến chủ trương phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi
nhọn, xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành trung tâm du lịch của khu vực và
cả nước được đề ra tại Đại hội Đảng bộ lần thứ V, là những bước tiến quan trọng
trong nhận thức của Đảng bộ tỉnh.
Công tác chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh được cụ thể hóa phù hợp với thực tiễn,
thế mạnh du lịch của tỉnh. Quá trình lãnh đạo phát triển, Đảng bộ Tỉnh đã có sự điều
chỉnh đúng hướng, hình thành các khu du lịch trọng điểm phù hợp. Nhiều kế hoạch,
chương trình hành động đã được xây dựng và triển khai thực hiện đều mang lại hiệu
quả thiết thực qua mỗi nhiệm kỳ. Công tác quản lý Nhà nước được đổi mới khá
toàn diện, từng nội dung được cụ thể hơn. Loại hình du lịch và sản phẩm du lịch
được chú trọng phát triển theo hướng tạo ra sản phẩm đa dạng, đặc sắc, có sức hấp
dẫn du khách. Công tác đầu tư được quan tâm đúng mức, nhiều chính sách thu hút
đầu tư đem lại hiệu quả, nhiều dự án có quy mô lớn được đầu tư tại tỉnh, hình thành
các điểm, khu du lịch hiện đại đáp ứng nhu cầu du khách. Công tác xây dựng môi
trường du lịch văn minh, hiện đại; quảng bá, xúc tiến du lịch được Đảng bộ Tỉnh
quan tâm chỉ đạo thường xuyên.
Những thành tựu đạt được về phát triển kinh tế du lịch từ năm 2005 đến
2015, cho thấy năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng bộ Tỉnh, chính
quyền và các sở, ban ngành, đoàn thể trong tỉnh là khá toàn diện. Đảng bộ
Tỉnh đã nhận được sự tham gia tích cực của các tổ chức, các doanh nghiệp du
lịch và của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác lãnh đạo,
hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra. Kết quả đạt được là cơ sở nền tảng
quan trọng cho phát triển kinh tế du lịch trong các giai đoạn tiếp theo.
105
Chƣơng 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2015
4.1.1. Ƣu điểm
4.1.1.1. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhận thức đúng đắn vị trí, vai
trò của du lịch, quán triệt quan điểm, chủ trương của Trung ương đề ra chủ
trương chính sách phù hợp với thực tế của địa phương
Một là, nhận thức của Đảng bộ tỉnh về vị trí, vai trò của kinh tế du lịch
được nâng lên rõ rệt.
Thấm nhuần quan điểm của Đảng, kinh tế du lịch là “ngành kinh tế tổng
hợp quan trọng” trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngay
từ khi mới thành lập (ngày 05-10-1991), Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lâm thời
đã tiến hành kỳ họp lần thứ I, xác định: “Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có điều kiện
rất lớn để phát triển du lịch, nên quy hoạch lại tuyến du lịch và các tổ chức kinh
doanh dịch vụ (chú ý cả tổ chức tuyến du lịch Vũng Tàu - Long Hải - Bình
Châu - Xuyên Mộc - Côn Đảo). Phát huy tính dân tộc trong xây dựng và phát
triển du lịch, đồng thời tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài để từng bước
hiện đại hóa, coi trọng cả dịch vụ du lịch quốc tế và du lịch nội địa”. Đây chính
là nền tảng quan trọng trong nhận thức của Đảng bộ tỉnh trong lúc mọi xuất
phát điểm của nền kinh tế - xã hội đang còn thấp.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I (1992), nhận thức rõ hơn tiềm năng, thế
mạnh du lịch của từng vùng trong tỉnh; đồng thời, chủ trương phát triển nhanh
kinh tế du lịch để tăng thêm việc làm và cải thiện đời sống người dân. Đảng
bộ tỉnh chủ trương, chú trọng khai thác về thiên nhiên, nhân văn, coi trọng du
lịch nội địa và quốc tế, tổ chức điểm du lịch gắn với loại hình du lịch, sản
phẩm du lịch, kêu gọi đầu tư các khu du lịch trọng điểm. Trong giai đoạn này
chủ yếu đặt ra nhiệm vụ trước mắt trong phát triển du lịch của tỉnh là phát
106
triển cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ có năng lực quản lý, tổ
chức, mở ra các tuyến du lịch thu hút khách trong nước và nước ngoài. Tuy
nhiên, đây là giai đoạn đang mày mò, tìm hướng phát triển.
Chỉ sau một thời gian ngắn, nhận thức này nhanh chóng được phát triển
trong các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: “Phát triển kinh tế
du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương” [40, tr.47]. Việc Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sớm đưa ra chủ trương trên chỉ sau 8 năm được
thành lập tỉnh là bước phát triển rất rõ về nhận thức và sự thay đổi tư duy về
cách làm du lịch trong điều kiện mới. Nhận thức này được Đảng bộ tỉnh chỉ
đạo xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và kinh tế du lịch nói riêng. Nghị quyết chuyên đề (số 17-NQ/TV ngày 05
tháng 12 năm 1998) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu về phát
triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2000, không chỉ dừng lại ở việc
xác định phát triển kinh tế du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn mà còn nhận
thức rõ hơn trách nhiệm “xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành trung tâm
du lịch của cả nước” đánh dấu bước phát triển hoàn toàn mới trong tư duy của
Đảng bộ, là cơ sở quan trọng để Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoạch định
chiến lược phát triển du lịch sau này.
Từ năm 2005, tình hình thế giới có nhiều thời cơ, thuận lợi, khó khăn,
thách thức đan xen nhau; đất nước có nhiều thành tựu về phát triển kinh tế
trong 20 năm đổi mới, nhưng còn yếu kém, nền kinh tế đang ở trình độ phát
triển thấp, quy mô nhỏ, còn tụt hậu so với một số nước trong khu vực, Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục có những chủ trương phù hợp với những
điều kiện, yêu cầu mới định hướng cho kinh tế du lịch của tỉnh phát triển
nhanh hơn. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh về phát triển kinh tế du lịch từ giai
đoạn này chuyển sang coi trọng nâng cao chất lượng gắn với phát triển các
sản phẩm và loại hình du lịch, hình thành các trung tâm về du lịch mang tầm
107
cỡ khu vực và quốc tế, chú trọng phát triển du lịch biển, đảo nhằm tăng cường
tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Nhận thức của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế du
lịch ngày càng cụ thể, rõ nét và được thể chế hóa trong quá trình chỉ đạo rất
cụ thể, như ưu tiên đầu tư có trọng điểm, đẩy mạnh đầu tư hình thành các khu
du lịch ở các địa phương có tiềm năng du lịch lớn như thành phố Vũng Tàu,
các huyện Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Côn Đảo, là bàn đạp phát triển
các khu du lịch vệ tinh hướng vào mục tiêu “đến năm 2015, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu sẽ trở thành một trong những trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và giải
trí lớn của cả nước” [121, tr.4]. Để thực hiện mục tiêu đề ra, ngày 27/5/2008,
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Nghị quyết (số 05-NQ/TU) về phát
triển kinh tế du lịch đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015 là một tầm nhìn mới
trong tư duy của Đảng bộ tỉnh, đưa kinh tế du lịch phát triển vào chiều sâu.
Trong đó, nhấn mạnh: các cấp ủy, chính quyền và mọi người dân phải nâng
cao nhận thức về du lịch, phát triển kinh tế du lịch. Đối với đảng bộ, chính
quyền, các cấp, các ngành cần chú trọng đầu tư cho công tác phát triển du
lịch. Đến Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI (2015), một lần
nữa trong phát triển nhận thức của Đảng bộ tỉnh: xem kinh tế du lịch là một
trong 4 ngành quan trọng nhất để phấn đấu phát triển trong nhiệm kỳ 2015 -
2020 của tỉnh, thể hiện rõ sự nhất quán trong quyết tâm chính trị của Đảng bộ.
Như vậy, quán triệt chủ trương của Đảng, vận dụng các chính sách của
Nhà nước về phát triển kinh tế du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã
nhận thức đúng đắn, thể hiện qua Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh các nhiệm kỳ,
từ Đại hội Đảng bộ lần thứ I (1992) đến Đại hội Đảng bộ lần thứ VI (2015),
đặc biệt là qua hai Nghị quyết chuyên đề về phát triển du lịch (Nghị quyết số
17/NQ-TV về phát triển du lịch đến năm 2000 và Nghị quyết số 05-NQ/TU về
phát triển kinh tế du lịch đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015. Nhận thức
Đảng bộ tỉnh ngày càng phát triển, hoàn thiện, phản ánh được yêu cầu phát
108
triển du lịch trong tình hình mới, tiềm năng thế mạnh về du lịch của địa
phương, xu thế phát triển du lịch của thế giới và của đất nước ta.
Hai là, kịp thời hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế du
lịch phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Do nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của kinh tế du lịch, Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã kịp thời xây dựng các chủ trương, chính sách phù
hợp với điều kiện trong từng giai đoạn; đồng thời, chỉ đạo chặt chẽ các ngành
xây dựng kế hoạch, quy hoạch mạng lưới dịch vụ du lịch hợp lý.
Trên cơ sở đánh giá chi tiết thực trạng tài nguyên du lịch, hoạt động du
lịch, tỉnh đã ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển ngành du lịch Bà Rịa -
Vũng Tàu giai đoạn 1996 - 2000. Quy hoạch của tỉnh phản ánh rõ bản chất
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010, đồng
thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế du lịch trong điều kiện mới. Định hướng
phát triển du lịch đến năm 2010 của tỉnh cũng dựa trên các dự báo khoa học về
mức độ tăng trưởng du lịch thông qua các chỉ tiêu GDP, doanh thu, lượt khách,
cơ cấu chi tiêu của du khách, xác định các loại hình du lịch chủ yếu cần tập
trung phát triển theo định hướng ngành và theo lãnh thổ. Trong đó, tập trung
đầu tư 5 cụm du lịch là thành phố Vũng Tàu và phụ cận, Long Hải - Phước
Hải; Bình Châu - Hồ Cốc; Núi Dinh - Thị Vải; Côn Đảo. Cụ thể hóa các cụm
du lịch, các sở, ngành, do Sở Du lịch chủ trì lập các đề án quy hoạch chi tiết,
hình thành 9 quy hoạch chi tiết với tổng diện tích 2.437ha, tổng hợp hiện
trạng đất toàn ngành du lịch đến năm 1999 và nhu cầu sử dụng đất đến năm
2010 tập trung ở các cụm du lịch chính, các tuyến, điểm du lịch ven biển tổng
diện tích khoảng 5.500 ha. Qua thực tiễn phát triển cho thấy, các điểm quy
hoạch đều có tính khả thi cao, đảm bảo các yếu tố kêu gọi đầu tư, là điều kiện
quan trọng để các ngành chức năng của tỉnh tập trung khai thác, quản lý, sử
dụng nguồn tài nguyên, hình thành các loại hình, các sản phẩm du lịch theo
quy hoạch đề ra.
109
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu lần thứ III (năm 2000), Đảng bộ Tỉnh giao cho Ban Cán sự đảng UBND
tỉnh xem xét, hoàn chỉnh và ban hành chương trình, đề án của các ngành,
trong đó ngành du lịch được chú trọng. Theo đó, Đề án “Phát triển du lịch
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” giai đoạn 2001 - 2005 được ban hành kèm theo
Quyết định số 7573/2002/QĐ-UB ngày 03 tháng 9 năm 2002 của UBND tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu. Mục tiêu cụ thể của Đề án đưa ra là hoàn chỉnh cơ sở hạ
tầng bằng nguồn ngân sách nhà nước, với số vốn giai đoạn 2001 - 2005
khoảng 169,812 tỷ đồng, tốc độ doanh thu du lịch đạt 10,9% đến 12%/năm,
đến năm 2005 doanh thu du lịch từ 840 - 850 tỷ đồng, đón từ 4,8 triệu đến 5
triệu khách du lịch, trong đó 230 ngàn đến 250 ngàn khách quốc tế là những
mục tiêu có tính khả thi cao. Đề án đưa ra 8 nhiệm vụ cơ bản, 6 giải pháp
quan trọng phát triển du lịch đến năm 2005 là những nhiệm vụ và giải pháp
quan trọng, phù hợp với điều kiện thực tế và làm nền tảng cho kinh tế du lịch
phát triển đúng hướng.
Trên cơ sở 5 cụm du lịch trọng điểm đã được xác định trong quy hoạch
tổng thể năm 1996, hình thành 10 khu du lịch, trong đó có 2 khu du lịch quốc
gia là khu du lịch sinh thái Hoa Anh Đào và di tích quốc gia Côn Đảo, Đề án
hình thành 5 tuyến du lịch với các loại hình du lịch chủ yếu phù hợp với quy
mô phát triển ở mỗi tuyến trong điều kiện lượng khách du lịch ngày càng tăng
cao. Theo đó, một số nhiệm vụ được quan tâm như phát triển các loại hình vui
chơi, giải trí và các ngành nghề liên quan đến du lịch, nhằm kéo dài thời gian
lưu trú và gia tăng mức chi tiêu của du khách đã đem lại hiệu quả tích cực.
Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27-5-2008 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ban hành Chương trình hành
động cụ thể hóa Nghị quyết thành mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phù hợp với từng
cụm, tuyến du lịch trên từng địa bàn trọng điểm; tiếp tục kêu gọi đầu tư phát
triển cơ sở vật chất cho du lịch để tạo nhiều sản phẩm đa dạng, sản phẩm đủ
110
sức thu hút khách du lịch cao cấp. Trong đó, nguồn ngân sách Nhà nước cho
các quy hoạch từ năm 2008 đến năm 2010 tăng đáng kể, đạt 5.166 tỷ đồng
[152, tr.2]. Việc hoàn thành quy hoạch du lịch các huyện Côn Đảo, Tân
Thành, Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc; tập trung đầu tư các công trình hạ
tầng ngoài hàng rào các khu du lịch và các chương trình trọng tâm phát triển
du lịch từ nguồn ngân sách của tỉnh đã góp phần kích cầu nguồn lực từ các
thành phần kinh tế nhằm đa dạng hóa đầu tư vào các sản phẩm du lịch. Các
loại hình du lịch phát triển nhanh theo đúng chủ trương của Đảng bộ Tỉnh,
chủ yếu là du lịch nghỉ dưỡng - giải trí; du lịch văn hóa - lễ hội; du lịch MICE
và du lịch sinh thái, là các hoạt động du lịch thu hút đông đảo du khách.
Các chủ trương được ban hành kịp thời, đúng hướng đã khai thác tích
cực tiềm năng về thiên nhiên, về các di tích lịch sử văn hóa, lịch sử cách
mạng, lễ hội truyền thống; phát triển nhanh các sản phẩm du lịch văn hóa gắn
với du lịch sinh thái và các sự kiện văn hóa, thể thao… vừa duy trì, phát huy,
cải thiện môi trường tự nhiên, vừa bảo đảm môi trường xã hội để phát triển du
lịch theo hướng phát triển bền vững.
Ba là, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội,
nhân dân vào phát triển kinh tế du lịch.
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát
triển kinh tế du lịch, cần có sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, các
tổ chức chính trị và nhân dân, tạo nên sự đồng thuận trong xã hội. Sau khi ban
hành các nghị quyết, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo công tác quán triệt, phổ biến đến
các cấp ủy Đảng, lãnh đạo các ngành, đoàn thể, các tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp làm du lịch trong tỉnh hiểu sâu sắc nội dung của nghị quyết. Từ
đó, tổ chức quán triệt xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết đồng bộ, thống
nhất trong toàn Đảng bộ tỉnh. Hàng năm, Tỉnh ủy đều thành lập đoàn kiểm tra
về việc thực hiện Nghị quyết của Đảng, của Đảng bộ tỉnh, nhất là đối với các
111
nghị quyết chuyên đề về phát triển du lịch đã thực sự đi vào cuộc sống người
dân (Nghị quyết số 05- NQ/TU và số 17-NQ/TV).
Để tạo nên sự đồng thuận trong hệ thống chính trị, các đảng bộ sở, ban
ngành của tỉnh, đều phải căn cứ vào chức năng nhiệm vụ cụ thể triển khai
thực hiện nhiệm vụ về phát triển du lịch theo nghị quyết của Đảng bộ đề ra.
Đối với Đảng bộ Sở Du lịch (1993 - 2007), Đảng bộ Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (2008 - 2015), được Đảng bộ Tỉnh chỉ đạo quán triệt đến đảng viên,
cán bộ công chức, viên chức trong toàn ngành, cơ sở đảng trực thuộc, Phòng
Văn hóa và Thông tin, Ban quản lý các khu du lịch các huyện, thành phố, đơn
vị kinh doanh du lịch và đến tất cả người lao động trong các doanh nghiệp.
Sau mỗi chủ trương của tỉnh, Sở Du lịch đều phải xây dựng kế hoạch, chương
trình hành động, như: Kế hoạch số 04/CTTHNQDL ngày 14 tháng 01 năm
1999 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về triển khai thực hiện Nghị quyết số
17-NQ/TV và Chương trình hành động số 54-CTr/ĐUVHTTDL, ngày 26-3-
2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU... Căn
cứ vào chủ trương của Đảng bộ tỉnh, Đảng ủy Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tập trung công tác chỉ đạo về công tác quy hoạch du lịch, công tác đầu tư
du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch, công tác xúc tiến du lịch, tuyên truyền
quảng bá du lịch, cải thiện môi trường và xã hội phát triển du lịch, đào tạo bồi
dưỡng nguồn nhân lực du lịch.
Đối với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội của
Tỉnh, tham gia thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nhận thức
đầy đủ vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế du lịch; nâng cao ý
thức bảo vệ môi trường tại các khu du lịch, bãi tắm, thực hiện xây dựng nếp sống
văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự trong các hoạt động du lịch. Với phương châm
phát huy sức mạnh của nhân dân - vừa là khách du lịch cũng là người làm du
lịch, đã tạo nên sự tham gia gắn kết của người dân đối với hệ thống chính trị
trong công tác phát triển du lịch của tỉnh. Trên thực tế, các tầng lớp nhân dân
112
luôn đồng tình ủng hộ chủ trương của Đảng bộ Tỉnh, tham gia tích cực công tác
tuyên truyền, quảng bá du lịch; tham gia giữ gìn môi trường, an ninh trật tự, làm
cho các dịch vụ du lịch phát triển lành mạnh. Nhờ đó, các biểu hiện tiêu cực như
tùy tiện nâng giá dịch vụ trong những ngày lễ, tết; bán hàng rong đeo bám
khách; thải rác dọc bờ biển... đã được hạn chế triệt để.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng bộ Tỉnh, công tác chỉ đạo các ngành
và cấp ủy Đảng trong phát triển kinh tế du lịch được tăng cường sâu sát, gắn kết
với những nhiệm vụ chuyên môn của ngành, phù hợp với thế mạnh của từng địa
phương, cơ sở. Đảng bộ các cấp đã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân vào phát triển kinh tế du lịch.
4.1.1.2. Chỉ đạo thực hiện đồng bộ các biện pháp, huy động mạnh
các nguồn lực và thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế du lịch
Một là, công tác quản lý nhà nước về phát triển kinh tế du lịch ngày
càng đổi mới, có nhiều tiến bộ.
Công tác quản lý nhà nước về kinh tế du lịch từng bước được kiện toàn
và hoàn thiện. Ngay khi Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được thành lập đã
chủ trương nâng cao vai trò công tác quản lý nhà nước đối với ngành du lịch.
Sở Du lịch được thành lập (1993), bộ máy được sắp xếp, củng cố và đi vào
hoạt động, từng bước có hiệu quả. Tiếp đó, tỉnh đã thành lập nhiều tổ chức
tăng cường công tác quản lý hoạt động du lịch, như: Ban Chỉ đạo Phát triển
du lịch tỉnh; Ban Quản lý các khu Du lịch Vũng Tàu, Xuyên Mộc, Long Điền,
Đất Đỏ, Côn Đảo; Hiệp hội du lịch… Nhờ đó, công tác quản lý nhà nước về
du lịch đã được tăng cường. Với một bộ máy hoàn thiện hơn, cán bộ công
chức từng bước được nâng cao trình độ, năng lực quản lý, đáp ứng cơ bản yêu
cầu, chức năng nhiệm vụ được giao; chức năng tham mưu, thực hiện, đề xuất
với Trung ương, bộ, ngành về kinh tế du lịch được thực hiện tốt.
Thông qua các cơ quan quản lý, tham mưu, xây dựng quy hoạch tổng
thể từng giai đoạn, như Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Bà Rịa - Vũng
113
Tàu giai đoạn 1996 - 2000, sau đó điều chỉnh đến năm 2005, quy hoạch hình
thành 8 khu du lịch trọng điểm; Quy hoạch chi tiết các khu du lịch trọng điểm
được đưa vào thực hiện, bước đầu định hình chức năng của từng địa bàn du
lịch trên bản đồ tổng thể phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhiều kế
hoạch, chương trình hành động được ban hành trong từng giai đoạn cụ thể đều
có tính khả thi và được phát huy tích cực. Bên cạnh đó, Đảng bộ tỉnh chủ
trương củng cố, kiện toàn các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hóa
một số doanh nghiệp, khách sạn, xây dựng mối liên hệ hợp tác giữa các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch... Thanh tra Nhà nước về du lịch được thành lập, thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh ngày càng
có hiệu quả.
Công tác quản lý nhà nước về kinh tế du lịch giai đoạn 1991 - 2005 đã
được Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo thực hiện kịp thời và đáp ứng
yêu cầu của tình hình địa phương có những kết quả bước đầu. Nhiều nội dung
đã được chỉ đạo thực hiện như sắp xếp bộ máy, xây dựng đề án, quy hoạch, kế
hoạch, công tác kiểm tra, giám sát, triển khai các văn bản… tạo cơ sở, nền
tảng cho công tác quản lý nhà nước giai đoạn tiếp theo.
Trong giai đoạn 2005 - 2015, trên cơ sở những thành tựu của giai đoạn
trước, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo tăng cường đổi mới công tác
quản lý nhà nước về kinh tế du lịch. Năm 2005, Luật Du lịch ra đời, công tác
quản lý nhà nước được đổi mới, nội dung thể hiện đầy đủ hơn. Triển khai
thực hiện Luật Du lịch về công tác quản lý Nhà nước, Đảng bộ Tỉnh đã chỉ
đạo UBND tỉnh, các sở, ngành xây dựng và thực hiện các nội dung quản lý
đáp ứng yêu cầu của Luật. Đến năm 2015 công tác quản lý nhà nước về kinh
tế du lịch của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Phục vụ tích cực cho công tác quản lý, Đảng bộ tỉnh thường xuyên đẩy
mạnh việc tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý du lịch,
do vậy các cấp ủy Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên, người lao động trên địa
114
bàn tỉnh đều nhận thức rõ về tầm quan trọng của ngành kinh tế du lịch đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân trong tỉnh. Từ đó, nâng
cao ý thức tự giác trong quá trình tham gia các hoạt động du lịch. Bộ máy
Nhà nước về du lịch tuy có sự thay đổi, biến động về tổ chức, khi thì là Sở Du
lịch với chức năng độc lập, khi được sáp nhập về Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, với chức năng mang tính liên ngành nhiều hơn, nhưng công tác quản lý
nhà nước vẫn tiếp tục được phát huy, mang lại hiệu quả thiết thực.
Trung tâm xúc tiến du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Ban Quản lý các
khu du lịch các huyện, thành phố triển khai nhiều hoạt động đưa ngành du
lịch phát triển. Ban Chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh được kiện toàn theo yêu
cầu phát triển của từng giai đoạn, thường xuyên xây dựng các chuyên đề chỉ
đạo nâng cao chất lượng hoạt động. Để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà
nước, nhiều quy chế quản lý về giá cả dịch vụ, kinh doanh, môi trường…
được ban hành và thực hiện; công tác thanh, kiểm tra được tăng cường hơn.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các hoạt động
du lịch được thường xuyên quan tâm, trình độ cán bộ công chức được nâng
lên, nhiều lao động có trình độ chuyên môn cao, làm việc trong khách sạn 4 -
5 sao, các khu du lịch chất lượng cao nên công tác quản lý về mặt Nhà nước
cũng gặp nhiều thuận lợi hơn.
Hai là, tăng cường thu hút mọi nguồn lực, phát triển sáng tạo các loại
hình, sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
Từ nhận thức rõ tầm quan trọng của dịch vụ du lịch và các loại hình
kinh doanh đối với phát triển kinh tế du lịch, ngay từ Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu lần thứ nhất (1992), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quan
tâm đặc biệt đến công tác phát triển nguồn lực, tăng cường sáng tạo các loại
hình, sản phẩm du lịch và chất lượng dịch vụ du lịch. Các nội dung này được
tăng cường và quan tâm chặt chẽ hơn, thể hiện rõ trong các nghị quyết đại hội
115
nhiệm kỳ và được thể chế cụ thể hơn trong các nghị quyết chuyên đề, chương
trình hành động của Đảng bộ Tỉnh về phát triển kinh tế du lịch.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sớm xác định rõ việc khai thác điều
kiện tự nhiên, điều kiện nhân văn, đầu tư triển khai các loại hình du lịch trọng
tâm, đó là du lịch sinh thái - cảnh quan, du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần và du
lịch văn hóa - kết hợp với thể thao. Các loại hình du lịch đã được các doanh
nghiệp đầu tư, tổ chức đón và phục vụ khách du lịch đạt hiệu quả, cho thấy sự
lựa chọn chiến lược đúng đắn, phù hợp với hiện trạng tiềm năng du lịch, khả
năng đầu tư của doanh nghiệp và yêu cầu thị hiếu của du khách. Các dịch vụ
du lịch được gắn với các loại hình du lịch, hình thành các tuyến du lịch trọng
tâm gắn với tiềm năng du lịch của từng địa phương từng bước được phát huy
thế mạnh.
Trên quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh, mỗi địa phương trong tỉnh
lựa chọn các loại hình du lịch phát triển phù hợp. Một địa phương có thể phát
triển nhiều loại hình du lịch, như thành phố Vũng Tàu phát triển loại hình du
lịch nghỉ dưỡng biển, hội nghị, hội thảo, du lịch lịch sử, tâm linh; huyện Côn
Đảo phát triển loại hình du lịch biển - đảo, du lịch văn hóa, di tích lịch sử, du
lịch sinh thái; huyện Xuyên Mộc phát triển thế mạnh của loại hình du lịch
sinh thái và du lịch nghỉ dưỡng. Từ đó, có giải pháp phù hợp xây dựng quy
hoạch phát triển du lịch của địa phương theo hướng chú trọng thu hút dự án
đầu tư, khai thác thế mạnh phát triển loại hình du lịch trọng tâm.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu chỉ đạo các doanh nghiệp du lịch hình thành các tour, tuyến, kết hợp các
tour, tuyến giữa các địa phương trong tỉnh tạo sự liên kết, hỗ trợ nhau phát
huy thế mạnh của các loại hình dịch vụ du lịch của mỗi địa phương, nâng cao
chất lượng các dịch vụ phục vụ du khách được tốt hơn. Nhờ đó, trong tỉnh đã
hình thành được nhiều loại hình du lịch, trong đó có nhiều loại hình du lịch
nổi bật thu hút đông đảo du khách đến với Bà Rịa - Vũng Tàu như du lịch
116
nghỉ dưỡng biển, du lịch văn hóa, lịch sử gắn với các lễ hội,… Các loại hình
du lịch gắn với các sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương đã được đầu
tư, khai thác hiệu quả. Nhờ đó, chất lượng dịch vụ tăng cao, có khả năng cạnh
tranh trong quá trình kinh doanh, góp phần làm tăng lượng khách du lịch, duy
trì tăng trưởng ngành kinh tế du lịch của tỉnh. Các loại hình du lịch gắn sản
phẩm du lịch theo các cụm du lịch tỉnh được hình thành. Điển hình như:
Trung tâm du lịch thành phố Vũng Tàu và phụ cận: Phát triển nhiều sản
phẩm du lịch phục vụ du khách như: Văn hóa lễ hội, Lễ hội Nghinh Ông (khai
hội văn hóa du lịch...); mua sắm Imperial Plaza, (siêu thị Mỹ Nghệ, Lam Sơn
Square); ẩm thực (Chợ Du lịch, tại các hội thi Ẩm thực vào các dịp Lễ, Tết
với sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch trong và ngoài tỉnh...); vui chơi
giải trí (đua chó, cáp treo, các trò chơi trên biển); tắm biển (khu du lịch Biển
Đông, Thùy Vân...), nghỉ dưỡng kết hợp hội thảo (The Imperial Hotel, The
Grand - Palace hotel, Pullman); du lịch kết hợp tham quan di tích (trận địa
pháo cổ Núi Lớn, Niết Bàn Tịnh Xá, Nhà lớn Long Sơn) ...
Phát triển các dịch vụ văn hóa, các hoạt động vui chơi, giải trí đã góp
phần phát triển mạnh các loại hình du lịch, thu hút du khách tham gia ngày
càng đông đảo. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo chặt chẽ ngành Văn
hóa tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao, lễ hội văn hóa thu hút khách du
lịch; chỉ đạo đẩy mạnh việc phối hợp giữa ngành Du lịch và ngành Văn hóa
trong việc xây dựng các chương trình, các điểm du lịch hấp dẫn, khai thác các
giá trị di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng thành các khu tham quan,
vui chơi cho du khách. Triển khai công tác biên soạn, sưu tập tư liệu lịch sử,
thuyết minh cho các chương trình du lịch văn hóa - lịch sử - lễ hội. Xây dựng
quy chế quản lý khai thác và sử dụng cũng như bảo vệ và tôn tạo các di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam - thắng cảnh vào việc phát triển kinh tế du lịch.
Đẩy mạnh chiến lược marketing cho các điểm đến có sức thu hút khách du
lịch trong và ngoài nước.
117
Ba là, xây dựng môi trường du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng
sạch đẹp, văn minh, hiện đại.
Do công tác quản lý Nhà nước về du lịch được tăng cường, nên công
tác giữ gìn môi trường du lịch cũng thường xuyên được quan tâm. Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo UBND tỉnh giao trách nhiệm cụ thể cho các
sở, ngành và các huyện, thành phố trong tỉnh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
cụ thể, tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân, nâng cao nhận
thức về giữ gìn trật tự trị an, vệ sinh môi trường tại các điểm du lịch. Đồng
thời, tăng cường kiểm tra giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm, đưa hoạt động kinh doanh du lịch đi vào kỷ cương, nề nếp. Trên tinh
thần đảm bảo môi trường du lịch sạch đẹp, văn minh, hiện đại, các tổ chức,
đơn vị chức năng thực hiện nghiêm việc ngăn chặn và xử lý các trường hợp
lợi dụng hoạt động phát triển du lịch, hoặc các hoạt động tín ngưỡng để làm
ăn trái phép, nhất là việc lấn chiếm đất đai thuộc quy hoạch của các điểm du
lịch xây dựng nhà ở, miếu thờ, đền thờ kinh doanh kiếm lợi hoặc phổ biến mê
tín, dị đoan trái với thuần phong, mỹ tục, tập quán của dân tộc.
UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ban hành nhiều thể loại văn bản chỉ
đạo công tác bảo vệ môi trường, xây dựng không gian du lịch trong sạch, văn
minh hiện đại. Trong đó, phải nhắc đến các văn bản được thực thi có hiệu lực
cao như: Quyết định số 3129/2000/QĐ-UB ngày 10-4-2001 về quy định quy
chế các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tại các bãi tắm; Chỉ thị số
18/2002/CT.UB ngày 20-3-2002 của UBND tỉnh về việc tăng cường công tác
bảo vệ tại các điểm thăm quan du lịch và các bãi tắm; Đề án đảm bảo trật tự
trị an tại các điểm thăm quan du lịch, các bãi tắm được phê duyệt theo quyết
định số 6308/QĐ-UB ngày 6-8-2002; Quyết định số 1727/2004/QĐ-UB về
quy chế quản lý và tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch tại các bãi tắm thuộc
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch
được ban hành theo quyết định số 8737/2004/QĐ-UB ngày 05-11-2004... Các
118
văn bản quy phạm pháp luật đều đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, giải quyết
kịp thời các vướng mắc trong hoạt động du lịch, nhất là các vấn đề liên quan
đến an ninh trật tự, vệ sinh môi trường. Điều đó cho thấy việc lành mạnh hóa
môi trường xã hội, môi trường tự nhiên có ý nghĩa quan trọng cho sự nghiệp
phát triển du lịch bền vững.
Công tác chỉ đạo tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân và du
khách về việc giữ gìn vệ sinh môi trường thường xuyên được đẩy mạnh, bằng
nhiều biện pháp tích hợp như: Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm, từng bước góp phần nâng cao nhận
thức của các cấp, các ngành và người dân. Tại thành phố Vũng Tàu, nhờ làm
tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, xử lý nghiêm tình trạng xả rác,
ăn uống tại bãi biển… môi trường biển tại đây trở nên sạch, đẹp, tạo được sự
đồng tình hưởng ứng của khách du lịch.
Bốn là, quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh, góp phần quan trọng
trong hoạt động và tăng trưởng kinh tế du lịch.
Với hướng đi đúng đắn, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã thu được
nhiều kết quả trong công tác quảng bá, xúc tiến du lịch. Đảng bộ thống nhất
chỉ đạo UBND tỉnh, hàng năm phải bố trí ngân sách thích hợp, đủ cho công
tác tuyên truyền, xây dựng các chiến lược quảng bá, xúc tiến du lịch, tổ chức
sự kiện văn hóa, thể thao, hợp tác du lịch nước ngoài về du lịch,… Công tác
tuyên truyền đã được tổ chức với nhiều hình thức đa dạng trên các phương
tiện thông tin đại chúng và được kết nối, lồng ghép trong các hoạt động khác.
Nhiều hoạt động KT - XH đều được tận dụng lồng ghép để tuyên truyền,
quảng bá các hoạt động du lịch của tỉnh. Đài phát thanh truyền hình, các báo,
các ấn phẩm, trên internet được thực hiện thường xuyên, liên tục. Tuyên
truyền thông qua công tác tổ chức sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch quy mô
quốc gia, quốc tế đã thu hút du khách tham gia ngày càng đông đảo. Thông
119
qua các hội chợ triển lãm trong nước, quốc tế, nhiều chương trình quảng bá về
phát triển kinh tế du lịch thú vị được giới thiệu.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tranh thủ được sự tham gia của
nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức các lễ hội, các sự
kiện văn hóa - du lịch, hội chợ, hội nghị, hội thảo, nhất là các sự kiện mang
tầm quốc gia, khu vực và quốc tế. Nhiều hoạt động của các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân đã có tác động mạnh mẽ trong quảng bá tiềm năng phát triển
Văn hoá Du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Qua đó, các thông điệp được
phát đi, góp phần định vị và ghi dấu ấn đậm nét đặc trưng của du lịch Bà Rịa -
Vũng Tàu, thu hút ngày càng đông đảo du khách.
4.1.1.3. Kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển ngày
càng toàn diện và theo hướng bền vững
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ và sự năng động sáng tạo của các
cấp, các ngành, các hoạt động du lịch được triển khai đồng bộ, và đạt được
kết quả khá toàn diện.
Một là, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ kinh tế du lịch ngày
càng được được đẩy mạnh. Do xác định rõ mục tiêu phát triển du lịch và tầm
quan trọng của cơ sở hạ tầng, là đòn bẩy để nâng cao chất lượng du lịch, nên
Đảng bộ đã hết sức quan tâm đến công tác này. Đến năm 2005, nhiều cơ sở
vật chất đã được xây dựng, cơ sở lưu trú và nghỉ dưỡng du lịch được tăng lên,
đã có khu du lịch 4 sao đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu của du khách. Nhiều khu
du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, kết hợp khu vui chơi giải trí có chất lượng cao
đã đi vào hoạt động và mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chú trọng đẩy mạnh thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, phát triển cơ sở hạ tầng, xem đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm
đưa ngành kinh tế du lịch thành ngành mũi nhọn. Sau khi ban hành chủ
trương, Đảng bộ tỉnh tập trung chỉ đạo lập quy hoạch phát triển du lịch phù
hợp với tổng thể phát triển KT - XH từng địa phương và của tỉnh trong mỗi
120
giai đoạn. Từ 5 cụm du lịch, 8 khu du lịch quy hoạch chi tiết được hình thành,
Đảng bộ tỉnh đã tăng cường thu hút đầu tư từ nhiều nguồn vốn, chủ yếu là vốn
đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài có đủ năng lực thực hiện triển khai
các dự án lớn của tỉnh.
UBND tỉnh chỉ đạo các ngành nghiên cứu, tham mưu xây dựng chính
sách, tạo điều kiện huy động tối đa nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển du
lịch. Trong đó, Đảng bộ xác định rõ, huy động nguồn lực xã hội, đặc biệt là
nguồn lực từ hợp tác quốc tế cho công tác đầu tư các dự án du lịch trọng điểm
là nhiệm vụ quan trọng phải được quan tâm thiết thực, nhất là trong điều kiện
kinh tế của tỉnh còn nhiều khó khăn. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các địa phương
theo dõi, quản lý các dự án đầu tư du lịch, chỉ đạo UBND tỉnh triển khai nhiều
biện pháp nhằm chuyển vốn đăng ký sang vốn thực hiện, nắm tình hình và
tiến độ triển khai dự án, hoàn thành dự án đi vào hoạt động. Nhờ vậy tiến độ
thực hiện các dự án được đẩy nhanh, kịp thời giải quyết các khó khăn, ách tắc
và điều chỉnh kịp thời những điểm hạn chế, bất cập trong các dự án.
Thông qua các chương trình xã hội hóa phát triển du lịch, đã huy động
được sự tham gia của nhiều doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn, tập
đoàn lớn… đầu tư vào các khu vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, kết hợp với
thể thao leo núi, ngắm cảnh..., góp phần tạo nên bức tranh kinh tế du lịch tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu được khởi sắc và phát triển.
Cơ sở vật chất phục vụ du lịch ngày càng khang trang, hiện đại. Các
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn đã nỗ lực xây mới và nâng cấp cải tạo cơ sở
đáp ứng nhu cầu thăm quan, nghỉ dưỡng, hội nghị, hội thảo... cho du khách
đến Bà Rịa - Vũng Tàu.
Hai là, doanh thu du lịch ngày càng tăng.
Công tác chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được thực hiện
thường xuyên, trên từng nhiệm vụ, góp phần làm cho doanh thu du lịch của tỉnh
tăng nhanh qua các năm.
121
Giai đoạn 2001 - 2005: doanh thu dịch vụ du lịch sau 5 năm tăng 1,87 lần,
tốc độ tăng 13,29%/năm. Cụ thể, năm 2001 đạt 547,8 tỷ đồng, đến năm 2005 đạt
890 tỷ đồng, năm 2007 đạt 1.075 tỷ đồng, năm 2010 đạt 1.780 tỷ đồng, năm
2015 là 2.100 tỷ đồng, năm 2016 có khoảng 2.188 tỷ đồng. Doanh thu dịch vụ
du lịch tăng lên nhanh chóng, tác động trực tiếp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của tỉnh. Năm 2005, nếu không tính dầu khí, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng là
64,5%, dịch vụ là 27,7%, nông nghiệp là 7,7% [42, tr.12]. Đến năm 2010, không
tính dầu khí, tỷ trọng công nghiệp là 64,3%, dịch vụ 31,2%, nông nghiệp 4,5%.
Như vậy, năm 2010 ngành dịch vụ đã tăng 3,5% so với năm 2005 [43, tr.8]. Đến
năm 2015, ngành dịch vụ tiếp tục tăng 1,06% so với năm 2010, và tỷ trọng các
ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 54,4%, dịch vụ chiếm 34%, nông - lâm -
ngư nghiệp chiếm 11,6% [44, tr. 24]. Tỷ trọng của ngành dịch vụ tăng qua các
năm chứng tỏ ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch phát triển, đóng góp
quan trọng cho tăng trưởng chung của tỉnh, đảm bảo chuyển dịch cơ cấu, cơ cấu
lại nền kinh tế của Đảng bộ tỉnh đề ra.
Ba là, khách du lịch tăng nhanh.
Thực hiện tốt sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, các hoạt
động du lịch được tổ chức tương đối đồng bộ. Nhờ đó, khách du lịch đến Bà
Rịa - Vũng Tàu ngày càng tăng.
Nếu như, trong giai đoạn 1996 - 2000, khách du lịch đến Bà Rịa - Vũng
Tàu chỉ tăng nhẹ, thì đến năm 2001, số lượng khách bắt đầu tăng lên đáng kể
với trên 3,9 triệu lượt khách, tăng hơn 1 triệu lượt so với bình quân 5 năm
trước đó, trong đó khách quốc tế có 146.800 lượt, tăng 70.000 lượt [42, tr.
12]. Số lượng khách tiếp tục tăng ấn tượng ở các năm tiếp theo: Năm 2007,
các doanh nghiệp du lịch đón và phục vụ 6.015.000 lượt khách, trong đó
khách quốc tế có 235 ngàn lượt; năm 2009 có 8,4 triệu lượt khách, trong đó
320 ngàn lượt khách quốc tế; năm 2015, các doanh nghiệp đón và phục vụ tại
122
các cơ sở kinh doanh du lịch đạt trên 15,2 triệu lượt khách, trong đó có 557
ngàn khách quốc tế [92, tr.7].
Như vậy, lượng khách đến Bà Rịa - Vũng Tàu tăng hàng năm với tốc độ
tăng khá, tăng trưởng bình quân hơn 12,9%/năm, tổng thu từ khách du lịch tăng
bình quân trên 15,9%/năm. Đặc biệt, giai đoạn 2011 - 2016, khách du lịch đến Bà
Rịa - Vũng Tàu tăng lên nhanh chóng, tổng lượt khách đạt khoảng 78,8 triệu lượt
khách, trong đó có 2,9 triệu lượt khách quốc tế, trung bình mỗi năm đón 13,2 triệu
lượt khách, trong đó hơn 482 ngàn lượt khách quốc tế. Sự phát triển của ngành
kinh tế du lịch đã đóng góp quan trọng vào GDP của tỉnh và giải quyết nhiều
việc làm ở địa phương (xem bảng 4.1).
Bảng 4.1. Tổng hợp hoạt động du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Nội dung 1990 1995 2000 2005 2010 2015
Cơ sở lưu trú
- Số khách sạn
- Số phòng
100
3.155
62
2.239
72
2.752
86
7.192
162
6.722
255
9.265
Lượt khách (ngàn lượt)
- Khách Quốc tế
- Khác nội địa
1.620
110
1.510
4.499
536
3.963
3.303
141
3.162
5.320
220
5.100
8.435
320
8.115
15.538
558
14.980
Lao Động (người)
- ĐH và trên ĐH
- Trung cấp và CĐ
- Công nhân kỷ thuật
- Khác
3.745
350
385
2.095
95
4.894
660
158
2.076
2.000
4.260
615
558
1.960
1.127
6.041
1.003
1.083
2.049
1.906
11.145
1.114
5.015
2.229
2.787
16.520
2.478
6.608
4.956
2.478
Doanh thu (tỷ đồng) 269 440 880 889 1.782 5.597
Nộp NSNN (tỷ đồng) 2.136 49,51 58 64 120 378
Nguồn: NCS tổng hợp [39, 40, 41, 42, 43, 44].
Kinh tế du lịch phát triển thực sự là đòn bẩy cho các ngành nghề khác
cùng phát triển, du lịch đã tạo ra hàng triệu việc làm, nâng cao chất lượng đời
sống xã hội do thu nhập ngày càng tăng lên (Xem Biểu 4.2). Phát triển du
lịch, kinh tế du lịch góp phần giữ gìn, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường
123
sinh thái; an ninh, quốc phòng; ngược lại văn hóa dân tộc, môi trường sinh
thái và an ninh quốc phòng là một phần quan trọng thúc đẩy kinh tế du lịch
phát triển hiệu quả và bền vững.
* Nguyên nhân của ưu điểm:
Về khách quan: Đây là thời kỳ Đảng tiến hành thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế, trong đó có chủ
trương đổi mới phát triển kinh tế du lịch phù hợp với điều kiện thực tiễn của
đất nước, phù hợp với xu thế chung của khu vực và thế giới. Hệ thống các quan
điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế du lịch của
Đảng, đã tác động mạnh mẽ trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch
của đất nước và ảnh hưởng sâu rộng đến các địa phương, nhất là những nơi có
nhiều tiềm năng và các lợi thế đặc trưng về du lịch như Bà Rịa - Vũng Tàu.
Từ sau Đại hội lần thứ VIII (1996), đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH, ngành Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn
trong việc thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế mà Đảng đề ra,
đồng thời góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mối quan hệ giữa ngành Du lịch với các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng ngày càng chặt chẽ, tạo điều kiện giúp đỡ nhau phát triển với vị thế, du
lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, chứa đựng sự liên ngành, liên vùng rõ rệt.
Đối với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ngoài tiềm năng, lợi thế với nhiều nét
đặc trưng, độc đáo trong các sản phẩm du lịch, trong thời gian 1991 - 2015,
kinh tế du lịch của tỉnh luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và
của các ngành chức năng trong tỉnh. Sự quan tâm được cụ thể hóa bằng các
chính sách, tạo điều kiện cho kinh tế du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển
nhanh và sớm khẳng định là Trung tâm du lịch lớn của quốc gia.
Về chủ quan: Trước hết, là vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu. Đảng bộ tỉnh đã sớm nhận thức về tầm quan trọng và tiềm năng,
lợi thế trong việc phát triển kinh tế du lịch của tỉnh; từ đó, vận dụng linh hoạt,
124
sáng tạo các chủ trương của Đảng, đề ra phương hướng nhiệm vụ và biện
pháp đúng đắn, thích hợp với từng giai đoạn lịch sử, xây dựng các chương
trình phát triển, đưa du lịch từ một ngành kinh tế đơn thuần sang một ngành
kinh tế quan trọng và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế
chung của tỉnh.
Hai là, huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và các
tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế du lịch. Từ năm 1991-2015, về
cơ bản kinh tế du lịch từng bước được triển khai đồng bộ trên cả ba phương
diện: Khai thác vùng không gian du lịch (nội địa, rừng, biển, đảo); khai thác
tiềm năng du lịch (các di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch sử...); phát triển các
lĩnh vực "hậu cần" cho kinh tế du lịch và các khu vực kết nối (các ngành phục
vụ phát triển kinh tế du lịch, văn hóa, khoa học, công nghệ, giáo dục và các
ngành kinh tế khác). Ba phương diện này hình thành các khâu liên tục của
một chuỗi phát triển gắn kết với các ngành, các vùng kinh tế, nên đã huy động
được sức mạnh của hệ thống chính trị và các tổ chức kinh doanh cùng tham
gia. Nhờ đó, công tác xã hội hóa hoạt động du lịch trong tỉnh cũng được phát
huy tích cực trên hầu hết các lĩnh vực, như đào tạo nâng cao năng lực nguồn
nhân lực; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; hình thành các sản phẩm du lịch;
tổ chức quảng bá các sản phẩm du lịch... để Bà Rịa - Vũng Tàu luôn xứng
đáng là một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn nhất của quốc gia.
Ba là, sự nỗ lực, gắn kết trong đầu tư phát triển du lịch. Nếu như trong 10
năm đổi mới, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tập trung xây dựng chiến lược
phát triển tổng hợp của ngành Du lịch; chiến lược phát triển con người; chiến
lược tạo vốn, đầu tư vốn, kinh tế đối ngoại và phát triển khoa học, công
nghệ... thì trong 15 năm tiếp theo, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chủ
trương gắn kết các chiến lược cùng phát triển. Trong đó, mở rộng đầu tư phát
triển du lịch tương xứng là một ngành công nghiệp dịch vụ “không khói”
mang lại hiệu quả kinh tế được ví như “con gà đẻ trứng vàng”.
125
Bên cạnh đó, là sự nỗ lực, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành
trong tỉnh, đặc biệt là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Kế hoạch và Đầu
tư; Sở tài chính....; sự tham gia tích cực và ủng hộ nhiệt tình của các doanh
nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư mạnh mẽ vào tất cả các loại hình du lịch,
nhất là các loại hình du lịch đặc trưng của tỉnh.
Như vậy, nhờ có sự quan tâm, tạo điều kiện và chỉ đạo thực hiện sát sao
của Đảng bộ; sự nỗ lực của các cấp các ngành và các tầng lớp nhân dân, từ năm
1991 đến năm 2015, kinh tế du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đổi mới nội dung, đổi
mới và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, góp phần nâng cao uy tín và tầm ảnh
hưởng của ngành Du lịch trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới.
4.1.2. Một số hạn chế
4.1.2.1. Về hoạch định chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Một là, nhận thức của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có sự chuyển
biến, ngày càng nâng cao rõ rệt nhưng chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ.
Bên cạnh những ưu điểm đạt được, nhận thức của các cấp ủy trong Đảng
bộ tỉnh về kinh tế du lịch vẫn chưa thật sự đầy đủ, toàn diện, dẫn đến công tác
hoạch định, chỉ đạo thực hiện còn những hạn chế nhất định.
Từ năm 1991, khi tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được thành lập, phải dành
nhiều thời gian ổn định bộ máy, sắp xếp cán bộ, điều tra cơ bản, quy hoạch tổng
thể kinh tế..., do đó công tác lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch chưa thực sự
được quan tâm đúng mức. Nhận thức của các cấp ủy thiếu đồng bộ, nhất là nhận
thức chưa rõ về một số tiềm năng phát triển kinh tế du lịch của địa phương ngoài
tiềm năng về biển, đảo. Giai đoạn từ năm 1992 - 1998, kinh tế du lịch đã đạt
được những kết quả về cơ sở vật chất, các loại hình kinh doanh dịch vụ bước đầu
phát triển. Tuy nhiên, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn “chưa xác định rõ
các loại hình du lịch phù hợp với đặc điểm của tỉnh vừa có biển, vừa có núi, có
rừng, có hải đảo, có nhiều di tích văn hóa và lịch sử cách mạng” [117, tr.2].
126
Ngoài tiềm năng về biển, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu còn có hệ thống di tích
lịch sử, danh lam thắng cảnh đẹp và hấp dẫn, có hệ thống rừng, núi ở một số
địa phương như huyện Côn Đảo - là di tích lịch sử cách mạng, nơi đây có 16
đảo nhỏ, có rừng quốc gia Côn Đảo là những tiềm năng lớn để khai thác phát
triển phong phú các loại hình du lịch. Tuy nhiên, Đảng bộ tỉnh chưa nhận thức
hết được tiềm năng, thế mạnh nên chưa có sự chỉ đạo định hướng cụ thể về
phát triển các loại hình du lịch. Khách du lịch chủ yếu mới chỉ là tắm biển, nghỉ
mát cuối tuần nên địa phương chưa tận dụng được công suất các khách sạn, nhà
hàng và các khả năng tại chỗ để kinh doanh dịch vụ về kinh tế du lịch.
Từ sau khi có Nghị quyết số 17/NQ-TV ngày 05-12-1998 về định hướng
phát triển kinh tế du lịch đến năm 2000 của Tỉnh ủy được ban hành, nhận thức
của các cấp ủy về vai trò hiệu quả du lịch đối với sự phát triển kinh tế du lịch
có chuyển biến hơn. Nhưng ở nhiều cấp ủy chưa thể hiện sự quyết liệt trong chỉ
đạo phát triển du lịch, chưa cụ thể hóa trong chỉ đạo phát triển loại hình du lịch,
nhất là phát triển loại hình văn hóa lễ hội, du lịch sinh thái; công tác chỉ đạo
xây dựng các dự án phát triển kinh tế du lịch chỉ ở quy mô nhỏ, chưa có chính
sách thu hút đầu tư thích đáng vào các dự án lớn.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-TV của Tỉnh ủy, năm 2008,
Tỉnh ủy tiếp tục ban hành nghị quyết thứ hai về du lịch, đó là Nghị quyết số 05-
NQ/TU ngày 27 tháng 5 năm 2008 về phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm nhìn 2015. Đánh giá quá trình triển khai thực
hiện trong khoảng thời gian từ 2000 - 2007, cho thấy những định hướng phát
triển du lịch mà Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ III, lần thứ IV và Nghị quyết
số 17/NQ-TV chỉ mới bao quát những vấn đề chung, cốt lõi về mục tiêu phát
triển du lịch, mà không thể hiện cụ thể trên từng nội dung, nhất là vấn đề cung -
cầu của kinh tế du lịch. Bên cạnh đó, các giải pháp phát triển ngành nghề, sản
phẩm du lịch cũng chưa sát với thực tiễn. Do đó, quá trình triển khai thực hiện
127
Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh về kinh tế du lịch ít nhiều ảnh hưởng, hiệu quả
một số chỉ tiêu đạt được chưa cao.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ V nhiệm kỳ
2010 - 2015 đề ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế du lịch và đề cập việc
tập trung xây dựng thêm các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch; giải quyết vấn đề
ô nhiễm môi trường, đảm bảo văn minh, an toàn, thân thiện. Tuy nhiên, vấn đề
cung - cầu trong kinh tế du lịch vẫn chỉ mới được đề cập đến mà chưa thể hiện rõ
ở mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ của Đảng bộ tỉnh. Trong phần phương
hướng, nhiệm vụ, Đảng bộ tỉnh chưa nhấn mạnh đến việc tăng cường đầu tư phát
triển du lịch, nhất là tăng cường thu hút vốn đầu tư các dự án du lịch mang tầm
vóc quốc tế; đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ khai thác các loại hình du lịch
tiềm năng; đầu tư công tác quảng bá hình ảnh du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu... Các
thông điệp về du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn theo kiểu truyền thống, chưa thể
hiện đậm nét đặc trưng và xu hướng phát triển mới của du lịch. Vì thế, ngành Du
lịch vẫn chưa tạo ra cơ sở vật chất hiện đại, nâng cao chất lượng hoạt động du lịch,
chất lượng quảng bá để du lịch của tỉnh phát triển đúng với tiềm năng của nó.
Do nhận thức chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ nên việc cụ thể hóa Nghị quyết
của Đảng bộ tỉnh thành chương trình, kế hoạch, đề án triển khai thực hiện ở nhiều
đơn vị cấp ủy vẫn còn chậm, thiếu kiên quyết, dẫn đến những hạn chế trong công
tác quản lý, điều hành phát triển kinh tế du lịch của tỉnh.
Hai là, quy hoạch du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế
du lịch.
Chủ trương về hoạch định phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã được Đảng bộ tỉnh tiếp thu từ sự chỉ đạo của Trung ương, nhanh chóng
xây dựng quy hoạch, kế hoạch cụ thể của tỉnh. Tuy nhiên, thực hiện quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch, việc phân cấp từ khâu lập quy hoạch, quản lý sau quy
hoạch du lịch tại các địa phương ở mỗi giai đoạn còn chưa rõ ràng và chưa cụ thể.
128
Do đó, “Quy hoạch các khu, điểm du lịch chưa hợp lý”, “chưa thu hút được các
nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế du lịch” [43, tr.16].
Trên thực tế, đến năm 2005, toàn tỉnh thành lập 8 quy hoạch chi tiết tỷ lệ
1/2000, nhưng các dự án mời gọi đầu tư vào các khu - điểm du lịch vẫn còn
nhiều hạn chế, thiếu tính hấp dẫn. Đến tháng 7 năm 2011, trên địa bàn tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu có 148 dự án đầu tư du lịch với tổng diện tích là 3.914,23 ha,
tổng vốn đăng ký đầu tư là 35.004,68 tỷ đồng và 11.966 triệu USD. Khi thực
hiện số vốn triển khai các dự án rất ít 6.037,9 tỷ đồng (chiếm 17,2%) và 233,5
triệu USD (chiếm 0,02%) so với tổng số vốn đăng ký đầu tư [88, tr.2].
Đến năm 2015, dự án đầu tư về du lịch tăng lên, theo đó số đầu tư cũng
tăng lên, tuy nhiên số vốn thực hiện vẫn còn rất thấp, cụ thể: có 192 dự án đầu
tư du lịch, tổng diện tích 6.182,62 ha, tổng số vốn đăng ký là 45.996,22 tỷ
đồng và 10.758 triệu USD. Trong đó dự án có vốn đầu tư nước ngoài 18 dự
án, tổng số vốn thực hiện là 776,84 triệu USD, đạt 7,2%, dự án đầu tư trong
nước 174 dự án, tổng số vốn thực hiện là 8.653,4 tỷ đồng, đạt trên 18,8% trên
tổng số vốn đăng ký [92, tr.11]. Một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến
các dự án đầu tư về du lịch chưa hiệu quả, xuất phát từ hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước về du lịch.
Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn kéo dài, nhiều hộ dân
chưa hợp tác trong việc kiểm kê, nhận tiền bồi thường, bàn giao mặt bằng còn
chậm, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án. Công tác thanh tra, kiểm
tra tình hình triển khai thực hiện, chấp hành các quy định pháp luật chuyên
ngành còn hạn chế. Tỉnh chưa ban hành quy chế đồng bộ trong công tác quy
hoạch nên quy hoạch giữa các ngành còn chồng chéo nhau trong khâu sử dụng
đất làm cho tính khả thi của các quy hoạch được duyệt kém hiệu quả, nhất là
làm chậm việc triển khai dự án đầu tư du lịch. Việc thỏa thuận cho các dự án
đầu tư vào các khu du lịch trong những quy hoạch đã được phê duyệt được
điều chỉnh cục bộ khá nhiều đã ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển dài hạn mà
129
quy hoạch đề ra. Cụ thể như một số dự án thuộc ngành kinh tế của tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu như y tế, giáo dục, nhà chung cư... do không có đất nên phải điều
chỉnh bố trí vào các khu đất dành cho phát triển kinh tế du lịch, trong khi một
số nhà đầu tư có tư tưởng giữ đất mặc dù khả năng tài chính có hạn, là những
khó khăn trong quá trình thực hiện quy hoạch.
4.1.2.2. Công tác chỉ đạo phối hợp về phát triển du lịch còn những bất cập
Một là, công tác quản lý Nhà nước còn thiếu chặt chẽ.
Từ năm 1991 - 2005, trong chỉ đạo công tác quản lý Nhà nước về kinh
tế du lịch của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu còn những bất cập, như: Thay
đổi bộ máy, năm 1993, Sở Du lịch được thành lập, việc củng cố, sắp xếp bộ
máy về du lịch cấp tỉnh, cấp huyện mất một thời gian tương đối dài để củng
cố, hoàn thiện bộ máy. Nhưng sau đó, năm 2008 lại sáp nhập với ngành Văn
hóa thông tin và Thể thao thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, khiến cho
công tác quản lý gặp nhiều khó khăn. Công tác đầu tư hạ tầng cũng bị gián
đoạn. Công tác cải cách hành chính, giải quyết hồ sơ cho các doanh nghiệp bị
ảnh hưởng đáng kể. Trong khi một số cấp ủy chưa thực sự đồng thuận và
thích ứng ngay với các chủ trương sáp nhập.
Trên thực tế, sau khi sáp nhập, công tác quản lý điều hành phức tạp
hơn, sự tập trung chuyên sâu, chuyên nghiệp cho công tác quản lý Nhà nước
về du lịch bị phân tán đáng kể; nhân lực làm công tác quản lý du lịch cũng
mỏng đi nhiều do phải kiêm nhiệm một số công việc khác trong khi nội dung
quản lý Nhà nước ngày càng mở rộng, tính chất phức tạp, yêu cầu công việc
ngày càng cao. Do đó, trên địa bàn tỉnh, có lúc, có nơi công tác quản lý Nhà
nước về kinh tế du lịch chưa toàn diện, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển du
lịch. Công tác thanh tra chuyên ngành về du lịch biểu hiện những hạn chế, bất
cập, thiếu thường xuyên, do thiếu đội ngũ công chức chuyên trách. Việc phân
cấp quản lý Nhà nước về lĩnh vực do UBND cấp huyện, thành phố bị hạn chế,
130
các ban quản lý các khu du lịch các huyện: Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc,
Côn Đảo và thành phố Vũng Tàu chưa phát huy được nhiệm vụ được giao.
Hai là, loại hình du lịch và các sản phẩm du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu vẫn còn thiếu hấp dẫn, sản phẩm du lịch thiếu tính đặc trưng.
Từ năm 1991 đến năm 2000, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã nhìn
nhận những hạn chế nhất định trong chỉ đạo phát triển loại hình dịch vụ du
lịch, sản phẩm du lịch, như: Chưa nhận thức đầy đủ về sự đa dạng của các
loại hình du lịch của một tỉnh vừa có biển, có núi, có rừng, có hải đảo, vừa có
nhiều di tích lịch sử cách mạng, danh lam thắng cảnh. Do đó, các dịch vụ và
loại hình du lịch vẫn còn đơn điệu, khách du lịch đến Bà Rịa - Vũng Tàu chủ
yếu mới chỉ là tắm biển, nghỉ mát cuối tuần nên chưa phát huy được công suất
khách sạn, nhà hàng, khiến cho doanh thu du lịch của tỉnh không cao.
Thiếu sót này đã được Đảng bộ Tỉnh nhận định: “Loại hình du lịch đơn
điệu, thiếu sự hấp dẫn đối với du khách” [49, tr.13], “Sản phẩm du lịch chưa
phong phú, chưa tạo được ưu thế cạnh tranh” [50, tr.21]. Trong chỉ đạo thực
hiện, Đảng bộ tỉnh chưa có giải pháp chủ động hỗ trợ doanh nghiệp khai thác
loại hình du lịch cuối tuần, du lịch sinh thái. Một số loại hình du lịch trong tỉnh
chưa phát huy hết khả năng như loại hình du lịch văn hóa lễ hội, nội dung các lễ
hội còn thiếu tầm vóc, kém phong phú, hấp dẫn du khách. Việc trùng tu, tôn tạo
di tích còn thiếu chú trọng khai thác di tích theo hướng kết hợp phục vụ du lịch.
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch với các ngành liên quan như:
Thương mại, Văn hóa, Thể dục Thể thao, nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
Các nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ; các đặc sản đặc trưng của địa
phương; các lễ hội văn hóa, thể thao; loại hình du lịch MICE (Hội nghị, Hội
thảo)… chưa được khai thác hiệu quả, do cơ sở vật chất như trung tâm hội nghị,
các phòng họp, hội trường của các khách sạn lớn chưa được đầu tư thích đáng.
Trong giai đoạn này, các dịch vụ du lịch của tỉnh chưa thực sự được
phát huy, mặc dù là tỉnh có tiềm năng rất lớn giữa các vùng du lịch trọng
131
điểm trong và ngoài nước. Trong khi, tỉnh còn thiếu các khu du lịch nghỉ
dưỡng lớn, khách sạn 4 - 5 sao đủ sức thu hút khách quốc tế cao cấp; các sản
phẩm du lịch còn rất đơn điệu, thiếu tính đặc trưng, giao thông tắc nghẽn, tệ
nạn xã hội, công tác tiếp thị - truyền thông - quảng bá cho du lịch vẫn chưa
được đầu tư đúng mức. Các điểm đến hấp dẫn, độc đáo, có sức thu hút du
khách vẫn chưa được nhiều người biết đến.
Tình trạng này tuy có được cải thiện trong giai đoạn tiếp theo (từ 2006
đến 2015), tuy nhiên vẫn chưa đồng bộ. Đến năm 2015, Đảng bộ Tỉnh vẫn
nhận thấy: “Thiếu sản phẩm du lịch đặc trưng để khách lưu trú dài ngày, các
khu du lịch chất lượng cao còn ít” [43, tr.31]. Các yếu tố lịch sử, văn hóa,
truyền thống, lễ hội, các di tích, danh thắng là chất liệu làm nên tính đặc trưng
của một sản phẩm du lịch chỉ mới được biểu hiện hay trưng bày vào các dịp lễ
hội, các sự kiện lớn của tỉnh mà chưa được khai thác hiệu quả. Sản phẩm du
lịch từ nông nghiệp như trái cây, các món ăn dân dã, làng nghề truyền thống
chưa thực sự trở thành sản phẩm du lịch phục vụ du khách.
Ba là, công tác xã hội hóa đầu tư phát triển kinh tế du lịch chưa thật sự
hiệu quả. Việc kêu gọi đầu tư phát triển du lịch của tỉnh đối với một số doanh
nghiệp lớn tầm cỡ quốc tế vẫn còn thấp so với tiềm năng; nhiều khu vực quy
hoạch đã được duyệt trong thời gian dài vẫn chưa được các tổ chức làm du
lịch tham gia đầu tư, nhất là các dự án lớn, dự án đầu tư các khu du lịch phức
hợp cao cấp phục vụ đối tượng khách du lịch quốc tế có chi tiêu cao. Nhiều
dự án đầu tư chưa có tính khả thi, tiến độ triển khai thực hiện còn chậm, số
vốn thực hiện chỉ chiếm rất nhỏ so với vốn đăng ký.
Bốn là, chất lượng các hoạt động tuyên truyền, quảng bá chưa cao,
chưa thường xuyên nên thông tin đến với nhân dân, nhất là với các tổ chức,
khách du lịch nước ngoài chưa đầy đủ và hấp dẫn. Chương trình quảng bá du
lịch trên các kênh truyền hình còn ít, chưa thường xuyên; nhiều hội thảo, hội
nghị kích cầu du lịch chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia; hoạt động
132
xúc tiến du lịch nước ngoài còn hạn chế, chưa tạo được sự kết nối trong vùng
và quốc tế... Đảng bộ Tỉnh cho rằng đây là nguyên nhân dẫn đến kinh tế du
lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế.
4.1.2.3. Kinh tế du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
thế mạnh của Tỉnh
Mặc dù mức độ tăng trưởng GDP du lịch của Bà Rịa - Vũng Tàu vào
loại cao của cả nước, nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội nói chung vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch của địa phương. Năm
1994, tỷ lệ GDP du lịch mới chỉ chiếm 1,6% tổng GDP của toàn tỉnh. Nếu so
sánh với tổng GDP của ngành dịch vụ thì du lịch cũng mới chiếm 11,8%.
Đại hội Đảng bộ lần thứ II (1996) đã nhận thấy: “Kinh doanh du lịch còn
kém hiệu quả và có mặt xuống cấp” [40, tr. 58]. Trên thực tế, trong nhiều thời
gian dài tiếp theo, lượng khách du lịch đến Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn chưa nhiều,
thậm chí có giai đoạn không tăng (1996 - 2000), hoặc có tăng nhưng tăng chậm
(2001 - 2007). Trong giai đoạn 1996 - 2000, khách du lịch quốc tế còn giảm
bình quân 23% mỗi năm. Giai đoạn 2001 - 2005, số lượt khách du lịch tăng
chậm, trung bình mỗi năm tăng khoảng 350 lượt khách du lịch, khách quốc tế
chỉ chiếm 3,76% (năm 2001) và 4,13% (năm 2005) [81, tr.5].
Từ năm 2006 đến năm 2009, số lượt khách đến Bà Rịa - Vũng Tàu đều
tăng hơn, nhưng lượng khách quốc tế đến với Bà Rịa - Vũng Tàu tăng vẫn không
đáng kể, chỉ từ 200.000 lượt người đến gần 300.000 lượt người. Giai đoạn 2010
- 2015, các doanh nghiệp đón và phục vụ tại các cơ sở kinh doanh du lịch đạt
trung bình trên 10 triệu lượt, riêng năm 2015 đón khách 15,211 triệu lượt khách,
trong đó có 557 nghìn khách quốc tế [92, tr.7] và được tăng lên trong các năm
sau, tuy nhiên vẫn chưa phản ánh đúng tiềm năng du lịch của Tỉnh.
Lượng khách ít, nhất là khách quốc tế dẫn đến doanh thu du lịch của
tỉnh chưa cao. Điều này cho thấy, dù là tiềm năng lý tưởng, nhưng thiếu cách
tổ chức quản lý, thiếu sản phẩm du lịch có bản sắc riêng, thiếu sự liên kết
vùng, thiếu sự truyền thông, quảng bá... thì du lịch vẫn khó phát triển.
133
Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo
phát triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015 là do tác động tổng hợp
của nhiều yếu tố, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về khách quan, là Tỉnh mới được thành lập, bên cạnh những mặt thuận
lợi cơ bản, cũng đan xen nhiều khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh đất nước
chịu nhiều tác động tiêu cực của tình hình thế giới cả về chính trị lẫn kinh tế,
nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Trong khi đó, khả năng
cạnh tranh của du lịch Việt Nam nói chung, du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
nói riêng còn nhiều hạn chế. Tuy được đặt trong quy hoạch du lịch tổng thể
quốc gia, nhưng trên phạm vi cả nước vẫn còn thiếu sự phối hợp liên vùng, liên
ngành trong tổ chức các hoạt động du lịch. Hệ thống chính sách, cơ chế pháp
luật, tuy đã được tăng cường nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh. Tuyên truyền quảng
bá, khai thác tài nguyên du lịch, phát triển sản phẩm du lịch còn bị chia cắt,
chưa có sự liên kết chặt chẽ. Thiên tai liên tiếp xảy ra ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động du lịch của nhiều địa phương, trong đó có Bà Rịa - Vũng Tàu.
Về chủ quan, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu qua từng giai đoạn cũng bộc lộ hạn chế. Công tác chỉ đạo
của Ban Chấp hành Đảng bộ và Ban Cán sự đảng UBND tỉnh có lúc chưa kịp
thời. Nhận thức của một số cấp ủy và chính quyền cơ sở về tầm quan trọng của
ngành kinh tế du lịch vẫn chưa đầy đủ, do đó chưa có giải pháp đúng trong chủ
trương cũng như trong công tác chỉ đạo.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch còn nhiều bất cập. Công tác
quản lý tài nguyên du lịch ở nhiều nơi còn lỏng lẻo, chưa đảm bảo tính bền
vững, vừa khai thác, vừa có trách nhiệm bảo tồn, phát huy, phát triển các giá trị
của tài nguyên du lịch, nhất là tài nguyên nhân văn.
Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý, tuyên truyền quảng
bá các hoạt động du lịch còn nhiều hạn chế, nhiều khi thiếu đồng bộ, không tạo
được sức mạnh tổng hợp trong phát triển du lịch trên địa bàn. Bên cạnh đó,
134
trình độ dân trí phát triển chưa đồng đều, nên vẫn xảy ra tình trạng “mạnh ai
nấy làm”, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ tại các khu, điểm du lịch.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành du lịch chưa thật sự đáp ứng yêu
cầu nhân lực trong xu thế hội nhập; chưa đáp ứng với sự phát triển du lịch hiện
đại. Chất lượng cán bộ công chức trong quản lý, kinh doanh du lịch ở một bộ
phận chưa được đào tạo có “lớp lang” nên còn yếu kém về nhiều mặt, nhất là
sự yếu kém về công nghệ thông tin, ngoại ngữ và văn hóa ứng xử.
Một số cơ chế, chính sách của tỉnh về đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng,
phát triển sản phẩm, loại hình du lịch vừa chậm, vừa thiếu đồng bộ, chưa theo
kịp với sự phát triển và đòi hỏi của thực tiễn, chưa tạo được môi trường thật sự
thông thoáng cho các nhà đầu tư. Công tác kiểm tra, giám sát chưa triệt để,
thường xuyên để xảy ra các vấn đề bức xúc trong các hoạt động du lịch.
Nguồn kinh phí đầu tư cho công tác quản lý, phát triển du lịch còn hạn
hẹp, dàn trải, tiến độ chậm và chủ yếu còn dựa vào ngân sách nhà nước. Công
tác xã hội hóa chưa thực sự được phát huy, hiệu quả đạt được chưa cao.
Từ thực tiễn trong 25 năm Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo
phát triển kinh tế du lịch trong điều kiện thời cơ thách thức đan xen nhau. Vượt
lên khó khăn, Đảng bộ Tỉnh đã khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh,
ban hành nhiều chủ trương phù hợp với thực tiễn, từng bước thúc đẩy kinh tế
du lịch phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Du lịch Rà Rịa -
Vũng Tàu trở thành điểm đến hấp dẫn trong tổng thể du lịch của đất nước.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong quá trình phát triển kinh tế du lịch
Trong hơn 30 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã đúc kết được
nhiều bài học kinh nghiệm, trong đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công công cuộc đổi mới. Dó đó, Đảng luôn chủ trương “phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
135
sức chiến đấu của Đảng,... nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị...”.
Đây là bài học quan trọng của Đảng.
Quán triệt tầm quan trọng trong công tác lãnh đạo phát triển kinh tế du
lịch, đưa Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành “trung tâm du lịch nổi tiếng của cả
nước”, Đảng bộ Bà Rịa - Vũng Tàu tập trung vào các nội dung sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp
và ý thức cộng đồng trong việc thực hiện chủ trương của Đảng bộ Tỉnh về
phát triển kinh tế du lịch. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, nâng cao
trách nhiệm của cấp ủy và các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị, thu
hút mọi ngành, mọi cấp quan tâm phát triển kinh tế du lịch của tỉnh.
Đảng bộ Tỉnh thường xuyên tăng cường lãnh đạo trên cả ba nội dung:
chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm tạo nên sự đồng thuận trong hệ thống
chính trị về khai thác tiềm năng phát triển kinh tế du lịch. Các cấp ủy Đảng,
chính quyền và địa phương chủ động xây dựng các nhiệm vụ trọng tâm phát
triển kinh tế du lịch. Trong đó, chú trọng các loại hình có thế mạnh đưa vào
kế hoạch, chương trình hành động để thực hiện thành công chủ trương Đảng
bộ Tỉnh. Nhờ đó, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh không ngừng được phát huy.
Thứ hai, phát huy tinh thần dân chủ trong việc xây dựng các quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế du lịch phù hợp với thực tiễn, huy động tối đa
những tiềm năng, lợi thế của tỉnh và phát triển kinh tế du lịch. Qua đó, giúp
Đảng bộ tỉnh phân khu chức năng, bố trí quy hoạch sát với yêu cầu phát triển.
Nhờ đó, Đảng bộ Tỉnh xác định rõ được các mục tiêu, nội dung, kế
hoạch, quy hoạch du lịch của Tỉnh. Các chủ trương của Đảng bộ tỉnh đều đảm
bảo tính khả thi. Các quy hoạch phát triển du lịch, nhất là những quy hoạch
mang tính chiến lược, dài hạn đều được bàn bạc dân chủ, có sự tham gia của
cộng đồng, người dân nên vừa rút ngắn được thời gian vừa đảm bảo các yếu
tố khả thi. Một số quy hoạch Đảng bộ tỉnh đang tập trung chỉ đạo thực hiện có
136
hiệu quả như: Quy hoạch tuyến ven biển Vũng Tàu - Long Hải - Phước Hải -
Xuyên Mộc và huyện Côn Đảo; Quy hoạch chi tiết 1/2000 Khu du lịch lâm
viên văn hóa Núi Dinh, Khu du lịch Bến Cát - Hồ Tràm, quy hoạch phát triển
khu du lịch quốc gia Long Hải - Phước Hải; triển khai thực hiện Quy hoạch
khu du lịch quốc gia Côn Đảo đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và có
cơ chế quản lý thích hợp các bãi tắm công cộng phục vụ người dân; Quy
hoạch khu vực phát triển loại hình du lịch đường sông…
Thứ ba, hoàn thiện thể chế, chính sách, tổ chức thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, cộng đồng phát
triển du lịch. Căn cứ vào chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng
và Nhà nước đã được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật, tạo
môi trường cho du lịch phát triển, Đảng bộ Tỉnh tập trung cụ thể hóa theo
điều kiện của địa phương. Tỉnh đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách
khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào du lịch, nhất là đối với các dự án đầu tư khu
vui chơi giải trí cao cấp, các khu du lịch phức hợp, các dự án tạo ra các sản
phẩm du lịch mới lạ, hấp dẫn có sức lan tỏa cao, tạo ra môi trường thông
thoáng cho doanh nghiệp, cộng đồng phát triển du lịch trên dịa bàn. Để thu
hút đầu tư du lịch, tỉnh đã có nhiều chính sách đặc thù như ưu tiên, miễn giảm
thuế, cho chậm tiền thuế có thời hạn, giảm tiền thuế đất, cho vay với lãi suất
ưu đãi, thuê môi trường rừng, biển để làm dự án du lịch...
Trên tinh thần, đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính,
tạo thuận lợi tối đa cho đối tác tham gia, tỉnh đã áp dụng linh hoạt các nội
dung pháp lý trong các hoạt động đầu tư, tham gia kinh doanh và hưởng lợi từ
du lịch, nhất là đối với các nhà đầu tư lớn, đẳng cấp quốc tế đang tiếp cận,
đầu tư dự án du lịch tại tỉnh; đơn giản về thủ tục thị thực nhập cảnh thu hút
khách du lịch nước ngoài khi đến với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Thứ tư, tăng cường công tác quản lý nhà nước về phát triển kinh tế du
lịch, chỉ đạo chặt chẽ các sở, ngành trong việc triển khai, quán triệt chủ
137
trương của Đảng, chính sách nhà nước về du lịch. Thường xuyên phát huy vai
trò tham mưu chủ lực các chính sách phát triển kinh tế du lịch của Sở Du lịch
và các Sở Văn hóa và Thể thao, Tài nguyên và Môi trường, Giao thông Vận
tải, Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Công an Tỉnh… cùng phối hợp thực
hiện các giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch của Tỉnh.
Trên thực tế, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nâng
cao công tác quản lý nhà nước về du lịch. Một số văn bản về bảo đảm an ninh
du lịch; đảm bảo môi trường du lịch và thực hiện “Bộ quy tắc ứng xử văn
minh du lịch” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch... đã từng bước đi vào
cuộc sống, hướng kinh tế du lịch phát triển bền vững. Nhiều văn bản phổ
biến, giáo dục pháp luật, nhất là việc triển khai Luật Du lịch sâu rộng cho cán
bộ công chức, viên chức ngành Du lịch, cho nhân dân và cho các doanh
nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh đã mang lại hiệu quả rõ rệt.
Nhận thức rõ đặc thù kinh tế du lịch là ngành có tính liên ngành, liên
vùng, Đảng bộ Tỉnh chủ trương cụ thể hóa và thực hiện tốt nguyên tắc quản lý
theo ngành kết hợp chặt chẽ với quản lý theo lãnh thổ; tăng cường phân cấp
quản lý cho cấp huyện, thành phố để phát huy hiệu quả về phát triển du lịch
tại mỗi địa phương.
4.2.2. Chú trọng công tác đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực đáp
ứng các yêu cầu hội nhập và phát triển du lịch bền vững
Xác định rõ chất lượng của hoạt động du lịch không chỉ phụ thuộc vào
các yếu tố như tiềm năng tài nguyên du lịch, hệ thống cơ sở vật chất, kết cấu
hạ tầng, chính sách phát triển ngành du lịch của nhà nước,… mà còn phụ
thuộc căn bản về chất lượng nguồn nhân lực, là một trong những yếu tố rất
quan trọng trong phát triển dịch vụ du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
thường xuyên quan tâm công tác đào tạo xây dựng nguồn nhân lực phát triển
du lịch, từng bước đáp ứng các yêu cầu mới trong quá trình hội nhập, phát
triển bền vững. Được thể hiện rõ trên các nội dung sau:
138
Xây dựng chính sách và tạo cơ chế cho việc đào tạo nguồn nhân lực
du lịch chất lượng cao. Bên cạnh việc đề ra các chủ trương, định hướng phù
hợp với điều kiện của tỉnh, Đảng bộ tỉnh thường xuyên quan tâm xây dựng
các chính sách, cơ chế, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo và các đơn vị kinh
doanh du lịch tham gia quá trình đào tạo, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ ngành du lịch. Đồng thời, ban hành các quy định về chính
sách đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, nhà trường
và doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân
lực sau đào tạo.
Xã hội hóa công tác đào tạo nguồn lực ngành du lịch, nhằm tạo lực
đẩy và hỗ trợ các cơ sở phát triển. Xác định rõ, tất cả thị trường du lịch đều
phải hướng đến sự hài lòng của du khách, lấy du khách làm trung tâm, từ đó
Đảng bộ tỉnh đã có những định hướng thích hợp cho công tác đào tạo. Điểm
đặc biệt trong việc định hướng này là không chỉ chăm lo từ phía Nhà nước
hay giao khoán cho một vài cơ sở đào tạo mà là trách nhiệm của toàn xã hội,
nhất là với đặc điểm du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp và toàn dân làm du
lịch. Từ đó, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chủ trương đẩy mạnh công tác
xã hội hóa đào tạo nguồn nhân lực, chú trọng kết hợp “3 nhà”: Nhà nước, nhà
trường, nhà doanh nghiệp với sự tham gia tích cực của người dân. Cùng với
việc quan tâm xây dựng các cơ sở đào tạo chính quy, tỉnh chủ trương nâng
cấp trường Du lịch từ trung cấp lên cao đẳng; đồng thời, cho phép nhà trường
liên kết đào tạo với các trường khác kể cả trong và nước ngoài; chủ trương
thành lập “Ban phát triển nguồn nhân lực du lịch” (trực thuộc Sở Du lịch);
thành lập hiệp hội các trường có đào tạo du lịch trên địa bàn tỉnh nhằm nối kết
thông tin, tạo sự hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau giữa các cơ sở có đào tạo. Xã hội hóa
công tác đào tạo đã khắc phục nhiều khó khăn về nguồn vốn do có sự tham
gia của các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch và của cả người dân. Theo
đó, người học, doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh du lịch được học cái mình
cần chứ không phải học cái cơ sở đào tạo sẵn có.
139
Chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn của giảng viên; từng bước
hoàn thiện khung chương trình đào tạo phù hợp với thực tiễn. Để công tác
đào tạo đi vào nền nếp, có chất lượng, đối tượng được Đảng bộ tỉnh quan tâm
trước hết, là đội ngũ cán bộ giảng viên phải có đủ phẩm chất, năng lực chuyên
môn và kỹ năng đào tạo về du lịch. Đảng bộ Tỉnh đã chỉ đạo việc ban hành
một cơ chế, chính sách đặc thù đối với đội ngũ giảng viên, như chế độ lương,
nhà ở, phương tiện, công cụ giảng dạy, dành thêm chỉ tiêu đào tạo ở trong
nước (trong đề án đào tạo thạc sỹ, tiến sĩ của Tỉnh); hỗ trợ đào tạo đại học,
liên kết đào tạo sau đại học về du lịch, v.v…
Trên thực tế, thông qua đào tạo mới, đào tạo lại và bồi dưỡng, trau dồi
kinh nghiệm về lĩnh vực du lịch, kỹ năng sư phạm, đội ngũ cán bộ giảng dạy
ở các cơ sở đào tạo được nâng lên, phần lớn giảng viên, cán bộ giảng dạy đều
đảm bảo các tiêu chí cán bộ đề ra. Theo đó, các khung chương trình đào tạo
cũng từng bước được hoàn thiện, hướng đến phục vụ người học, phục vụ yêu
cầu của phát triển.
Đào tạo hướng đến thực hành và kỹ năng nghề. Để đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế du lịch trong tình hình mới, Đảng bộ tỉnh thường xuyên chỉ
đạo các trường, xây dựng khung chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học
theo hướng thực hành và kỹ năng nghề có địa chỉ, như kỹ năng phát triển sản
phẩm; kỹ năng tuyên truyền, quảng bá; kỹ năng xây dựng các thông điệp
trong du lịch; một số kỹ năng như: ngoại ngữ, giao tiếp, làm việc nhóm, giải
quyết vấn đề, sáng tạo, dịch vụ khách hàng, v.v… thay vì triển khai những
chương trình đào tạo mang tính rộng lớn nhưng ít hiệu quả như trước đây.
Điều đó, đặt ra yêu cầu đối với nhà trường, cần phối hợp chặt chẽ với các
doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh du lịch xây dựng chương trình giảng
dạy, đề tài nghiên cứu khoa học có địa chỉ ứng dụng cụ thể, gắn với thực tiễn
cuộc sống, giúp cho người lao động có thể tự tin, chủ động phát huy được khả
năng của mình trong môi trường hội nhập.
140
4.2.3. Chú trọng nâng cao chất lƣợng sản phẩm du lịch đặc trƣng
của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; tăng cƣờng công tác quảng bá, xúc tiến du
lịch nhằm thu hút du khách đến với Tỉnh
Sản phẩm du lịch được quy định tại Luật Quốc hội “là tập hợp các dịch
vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để thỏa mãn nhu cầu của
khách du lịch”. Vì vậy, sản phẩm du lịch có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế du lịch của đất nước và của mỗi địa phương. Sản phẩm du lịch
đặc thù thể hiện sản phẩm có những đặc tính độc đáo, đại diện tiêu biểu về tài
nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên nhân văn cho một lãnh thổ, một quốc
gia hoặc điểm đến du lịch. Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù quyết định “sự
khác biệt” của sản phẩm du lịch để thu hút khách du lịch.
Đối với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để đáp ứng được tất cả du khách và
những du khách ưa thích các sản phẩm du lịch đặc trưng, cần phát triển đa
dạng sản phẩm du lịch, đồng thời, ưu tiên những sản phẩm độc đáo, hấp dẫn,
có khả năng thu hút nhiều khách. Ngay từ khi mới thành lập tỉnh, Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã đưa ra chủ trương “phát triển sản phẩm du lịch phù
hợp với tài nguyên du lịch của tỉnh; từng bước, xác định nhiệm vụ trước mắt
là “tập trung phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển; du lịch hội nghị,
hội thảo (MICE); du lịch sinh thái chất lượng cao; du lịch lịch sử, tâm linh”
[52, tr.28]. Các loại hình du lịch chủ yếu này gắn với sản phẩm du lịch phù
hợp, phong phú và đa dạng phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của du khách.
Ngoài ra, Đảng bộ Tỉnh tăng cường công tác chỉ đạo xây dựng sản phẩm
du lịch mang tính đặc trưng của tỉnh phục vụ cho sự kết hợp các loại hình du lịch
như các món ăn độc đáo, các loại hải sản tươi sống, loại hình giải trí thể thao trên
biển, đua chó, trò chơi cảm giác mạnh, các làng nghề truyền thống...
Phát huy thế mạnh và tăng cường liên kết giữa các vùng, miền, địa
phương hướng tới hình thành sản phẩm du lịch đặc trưng theo các vùng du
lịch. Bà Rịa - Vũng Tàu cần có sự phối hợp phát triển du lịch với Thành phố
141
Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Đồng Nai để khai thác các sản phẩm du lịch đặc
trưng là du lịch đô thị, du lịch MICE, tìm hiểu lịch sử - văn hóa, du lịch nghỉ
dưỡng và sinh thái biển, đảo.
Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch là một việc làm hết sức cần thiết đã
được áp dụng trên thế giới và mang lại hiệu quả cao. Khác với những đặc
điểm quan trọng của các ngành dịch vụ hoặc ngành sản xuất những sản phẩm
thông dụng, nhu cầu về du lịch mang tính linh hoạt liên quan đến các mặt
bằng thu nhập, giá cả và nhu cầu nhạy bén với tình hình chính trị và xã hội,
mang tính mùa vụ, đòi hỏi công tác quảng bá, xúc tiến du lịch phải thường
xuyên được tăng cường.
Nhận thức rõ điều đó, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tập trung các
hoạt động truyền thông, tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi, cung cấp thông tin
đúng, đủ về các sản phẩm du lịch, điểm đến du lịch, xây dựng hình ảnh, xây
dựng thương hiệu cho du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu. Hình thức tuyên truyền
quảng bá đã được triển khai ngày càng đa dạng, phong phú qua nhiều kênh
như truyền hình, báo chí, tài liệu, hội nghị, hội thảo... cung cấp thông tin du
lịch đến người dân, doanh nghiệp, thu hút khách du lịch và thu hút đầu tư phát
triển du lịch. Tuy nhiên, thực tiễn công tác quảng bá xúc tiến du lịch của tỉnh
còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến phát triển kinh tế du lịch.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế du lịch của tỉnh, đã để lại bài học quan
trọng về sự cần thiết phải tăng cường công tác lãnh đạo tuyên truyền, quảng
bá, xúc tiến dịch vụ du lịch. Do đó, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo
nhiều nhiệm vụ cụ thể về xúc tiến quảng bá du lịch. Xây dựng chiến lược
tuyên truyền, quảng bá, hợp tác phát triển du lịch trong và ngoài nước với quy
mô, trình độ chuyên nghiệp, có nội dung cụ thể gắn với nhu cầu, thị hiếu của
từng thị trường, phù hợp với các mục tiêu đã được xác định; thay đổi phương
thức thực hiện hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch từ thực hiện đại trà, không
phân biệt trước đây sang tiếp cận theo thị trường và mục tiêu tập trung có tiêu
điểm [56, tr.309].
142
Hoạt động tuyên truyền, quảng bá phải được thực hiện thường xuyên,
liên tục, bằng nhiều hình thức khác nhau. Đa dạng hóa các kênh thông tin,
thông qua cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch cấp tỉnh, cấp huyện, thành
phố, chủ động liên kết, hợp tác với các tổ chức du lịch trong nước và quốc tế
để mở rộng thị trường. Nội dung về du lịch luôn mới, đòi hỏi công tác truyền
thông cũng luôn được đổi mới, kết hợp nhiều hình thức theo hướng chuyên
nghiệp, thiết thực và hiệu quả như: tổ chức các hội thảo chuyên đề về xúc tiến du
lịch; tham gia các hội chợ du lịch quốc tế lớn… mới có thể đưa du lịch Bà Rịa -
Vũng Tàu vào tour, tuyến trong nước và quốc tế như mong đợi.
4.2.4. Đẩy mạnh đầu tƣ phát triển du lịch, huy động xã hội hóa, tăng
cƣờng liên kết, hợp tác trong và ngoài nƣớc về phát triển kinh tế du lịch
Kinh tế du lịch là một bộ phận trong kinh tế của đất nước nói chung, vì
vậy, trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch, Đảng bộ Tỉnh nhận thấy
đẩy mạnh đầu tư phát triển du lịch, huy động xã hội hóa, tăng cường liên kết,
hợp tác trong và ngoài nước về phát triển kinh tế du lịch là hết sức cần thiết.
Ngay từ rất sớm, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã xây dựng quy hoạch
phát triển du lịch, dành riêng cho những khu vực có vị trí đẹp nhất, thuận lợi
nhất để thu hút đầu tư trong và ngoài tỉnh. Thực hiện đầu tư bằng ngân sách Nhà
nước cho việc phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ cho phát triển
loại hình du lịch hội nghị, hội thảo, vui chơi, giải trí. Đồng thời, huy động tổng
lực các thành phần kinh tế đầu tư cho các khu du lịch trọng tâm của tỉnh; ban
hành cơ chế, chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, thuế, giá thuê đất đối với
dự án đầu tư du lịch; triển khai biện pháp chuyển vốn đăng ký sang vốn thực
hiện; cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính…
Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư phát triển du lịch, đồng thời
cũng thấy rõ những khó khăn trong nền kinh tế của tỉnh, Đảng bộ tỉnh chủ
trương xã hội hóa công tác đầu tư, huy động sự tham gia của các doanh
nghiệp và nhân dân đầu tư cho phát triển kinh tế du lịch; đồng thời, tăng
143
cường thu hút đầu tư nước ngoài xây dựng các dự án lớn, phức hợp tại các
khu du lịch trọng tâm, nhất là 2 khu du lịch quốc gia: Long Hải - Phước Hải
và Côn Đảo. Tỉnh cũng thường xuyên rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch
cho phù hợp với khả năng đầu tư xây dựng cơ bản, kèm theo là xây dựng sản
phẩm du lịch đặc sắc có sức hấp dẫn cao.
Với quan điểm phát triển, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư các loại
hình du lịch cao cấp, phù hợp với xu hướng của thị trường du lịch quốc tế;
phát triển du lịch gắn với bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử cách mạng, nâng cao
giá trị văn hóa vùng - miền, hội nhập quốc tế… Đảng bộ Tỉnh tiếp tục chỉ đạo
việc nghiên cứu, bổ sung các chính sách thu hút đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích
gắn với khai thác, phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trên
địa bàn tỉnh. Nhiều giải pháp tích cực được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
triển khai; các biện pháp quản lý di tích và hoạt động bảo quản, tu bổ và phục
hồi di tích trên địa bàn tỉnh được tăng cường; việc bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa được gắn với yêu cầu phát triển kinh tế, du lịch và dịch vụ. Trong đó,
giải pháp về Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi hệ thống di tích (bao gồm di
tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia, di tích cấp tỉnh và đối tượng đã được
kiểm kê di tích) trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bước đầu được triển khai
có hiệu quả.
Kinh tế du lịch biển, đảo của tỉnh được chú trọng, tạo ra cơ hội thu hút
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần tạo ra môi trường hòa bình, ổn
định chính trị trong tỉnh, trong nước và khu vực. Với lợi thế về bờ biển dài
trên 300 km, có 156 km là bờ thoai thoải, nước xanh, có thể sử dụng làm bãi
tắm và phát triển các loại hình du lịch, nếu có chính sách hợp lý sẽ là cơ hội
để thu hút các nhà đầu tư vào loại hình du lịch biển, đảo, gắn với các sản
phẩm du lịch khác, như: du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, thể thao biển, nghỉ
dưỡng kết hợp với tham quan, khám phá thiên nhiên, văn hóa. Trên thực tế,
144
các khu du lịch, cụm du lịch, các resort, các khách sạn cao cấp của tỉnh ở
ven biển, ngoài đảo đã thu hút lượng lớn du khách.
Đối với cụm du lịch Côn Đảo, theo Quyết định số 264/2005/QĐ-TTg
ngày 25-10-2005 của Thủ tướng Chính phủ, xác định mục tiêu phát triển Côn
Đảo trở thành “Khu kinh tế - du lịch hiện đại, đặc sắc tầm cỡ khu vực và quốc
tế”, đã nhanh chóng thu hút nhiều dự án đầu tư, xây dựng mang tầm cỡ quốc
tế. Nhiều dự án đã triển khai và đi vào hoạt động có hiệu quả cao cả về kinh tế
và xã hội. Đặc biệt, ngày 17-6-2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 870/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển khu du lịch
quốc gia Côn Đảo, là điều kiện thuận lợi để kinh tế du lịch Côn Đảo phát
triển mạnh mẽ. UBND tỉnh đang chỉ đạo sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch
chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan triển khai thực hiện Quy hoạch
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Kinh tế du lịch phát triển, tác động mạnh mẽ đến nhiều ngành KT - XH
khác, thúc đẩy tăng trưởng GDP, nhất là nâng cao thu nhập cho người dân. Kết
quả đạt được từ kinh tế du lịch đã nâng mức thu nhập bình quân của người dân
lên khá cao. Đến năm 2015 đạt trên 5.230 USD/người/năm, và chỉ đứng sau
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đây là kết quả của sự nỗ lực của Đảng bộ
và nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong phát triển kinh tế nói chung và kinh tế
du lịch nói riêng.
4.2.5. Phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh
Phát triển kinh tế du lịch gắn với tăng cường bảo đảm quốc phòng, an
ninh ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là nội dung vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều điều kiện phát triển du lịch, nhất là du lịch
biển, đảo; đồng thời có vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với khu
vực Đông Nam Bộ và đối với cả nước.
Trong quá trình phát triển kinh tế du lịch, Đảng bộ Tỉnh luôn nhận thức sâu
sắc mối quan hệ tương tác đó. Trước hết, quốc phòng an ninh tác động đến sự
145
phát triển kinh tế du lịch, nhất là kinh tế du lịch biển, đảo. Nếu Quốc phòng - an
ninh vững chắc sẽ tạo môi trường hòa bình, ổn định để thu hút các nhà đầu tư,
khách du lịch, thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển; ngược lại, tiềm lực, khả năng
quốc phòng - an ninh yếu kém, trật tự an toàn xã hội không đảm bảo sẽ gây nên
các bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội, làm giảm hoặc không có khả năng thu hút đầu
tư, giảm thu hút du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng. Thứ hai, vai trò của phát
triển kinh tế du lịch, nhất là kinh tế du lịch biển, đảo với quốc phòng - an ninh,
trực tiếp góp phần tạo ra nguồn lực vật chất, kỹ thuật cho tăng cường Quốc phòng,
an ninh và xây dựng khu vực phòng thủ nhân dân ngày càng vững chắc.
Kinh tế du lịch biển, đảo phát triển, góp phần tạo ra môi trường hòa
bình, ổn định, cùng nhau khai thác, cùng nhau bảo vệ môi trường hòa bình và
ổn định về chính trị. Phát triển kinh tế du lịch biển, đảo cũng góp phần cùng
cả nước thực hiện chiến lược ngoại giao, nâng cao vị thế của Việt Nam với
thế giới, đặt ra yêu cầu cao về quản lý, luật pháp, cơ sở hạ tầng, quốc phòng -
an ninh, bảo vệ môi trường biển, đảo...
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, để kinh tế du lịch, kinh tế
du lịch biển, đảo phát triển, chúng ta phải mở cửa đầu tư, thu hút du khách đến
thăm quan, nghỉ dưỡng biển. Bên cạnh những du khách và nhà đầu tư có thiện
chí thì các thế lực thù địch, tội phạm quốc tế, tệ nạn xã hội trà trộn, len lỏi theo
con đường đầu tư, du lịch để tìm hiểu thế trận quốc phòng, khả năng phòng vệ
biển, đảo nước ta phục vụ cho ý đồ, mục đích xấu, chống phá Đảng, chính
quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân... vẫn thường xuyên xảy ra. Cùng
với đó là các tệ nạn xã hội xâm nhập vào địa bàn tỉnh như các loại văn hóa
phẩm độc hại, mại dâm, cướp giật, đeo bám khách ở một số khu du lịch của
tỉnh làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, thậm chí là an ninh
quốc phòng của tỉnh.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều di tích lịch sử cách mạng, trong đó
huyện Côn Đảo có 16 hòn đảo nhỏ là di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia, cùng
với các khu bảo tồn thiên nhiên dưới thềm lục địa, có bãi tắm đẹp nhất và sạch
146
nhất Việt Nam, thu hút ngày càng nhiều du khách, trong khi công tác quản lý
trên đảo không thuận lợi giống trong đất liền, các thế lực xấu thường lợi dụng
danh nghĩa khách du lịch để hoạt động tình báo, gây mất trật tự an ninh trong
khu vực, do đó việc gắn kết chặt chẽ du lịch với quốc phòng, an ninh là yếu tố
quan trọng bổ trợ nhau cùng phát triển.
Đối với công tác an ninh trật tự, an toàn du khách, Đảng bộ Tỉnh chỉ
đạo trọng tâm là đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến trong nhân dân về nâng cao
ý thức về giữ gìn trật tự trị an; chỉ đạo ban hành kịp thời các văn bản quy
phạm pháp luật, các văn bản hành chính, hướng dẫn người dân và các tổ chức
thực hiện nghiêm trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong bảo vệ an ninh, quốc
phòng. Xác định rõ quy chế hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tại các bãi
tắm; xây dựng đề án bảo đảm an ninh du lịch; đề án lành mạnh hóa môi
trường xã hội tại các điểm tham quan du lịch.
Đối với công tác an ninh quốc phòng, trong kinh tế du lịch biển, đảo phải
thực hiện tốt theo Chiến lược an ninh quốc gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, giữ vững chủ quyền an ninh biển, đảo. Trong xây dựng Quy
hoạch phát triển du lịch tại vùng ven biển của tỉnh, quy hoạch khu du lịch quốc
gia Long Hải - Phước Hải, Côn Đảo đều đảm bảo yếu tố về an ninh quốc phòng.
Đẩy mạnh sự gắn kết giữa kinh tế du lịch với tăng cường quốc phòng,
an ninh trên địa bàn là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị trong Đảng bộ;
đồng thời, là tinh thần trách nhiệm, tự giác của các doanh nghiệp, đơn vị và
người dân tham gia họat động du lịch. Trong đó, chú trọng hơn nữa các hoạt
động chủ yếu: Một là, thường xuyên quan tâm công tác tuyên truyền, nâng
cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp, các doanh nghiệp đóng trên
địa bàn và người dân hiểu biết rõ về việc gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh
tế du lịch với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong đó, cần làm rõ vị trí, vai
trò của kinh tế du lịch đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng
thời, nêu rõ tác động của công tác quốc phòng, an ninh đến hoạt động kinh tế
du lịch. Từ đó, tăng cường giáo dục cho cán bộ, công nhân, người lao động
147
làm việc trong lĩnh vực du lịch sự hiểu biết về mối quan hệ tương tác này. Hai
là, trong quá trình xây dựng chính sách phát triển du lịch cho địa phương, cần
quy định cụ thể việc đảm bảo các yếu tố về giữ gìn quốc phòng, an ninh; đồng
thời, tăng cường quốc phòng, an ninh để các dự án, đầu tư về phát triển kinh
tế du lịch phát huy hiệu quả, thu hút ngày càng đông du khách. Các cơ chế,
chính sách của tỉnh phải gắn kết giữa kinh tế du lịch và quốc phòng, an ninh,
không vì coi trọng vấn đề này mà coi nhẹ vấn đề kia. Nếu không làm tốt điều
đó, sẽ dẫn đến hệ lụy không chỉ cho một lĩnh vực này hay lĩnh vực kia mà là
cả hai đều bị ảnh hưởng, có khi là nghiêm trọng.
Tiểu kết chƣơng 4
Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch trong 25 năm (1991 - 2015),
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương của
Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương, lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của
tỉnh ngày càng có hiệu quả, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thông qua lãnh
đạo, nhận thức của Đảng bộ Tỉnh về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của ngành kinh
tế du lịch được nâng lên rõ rệt; Đảng bộ Tỉnh kịp thời hoạch định các chủ trương,
chính sách, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, từng bước kêu gọi đầu tư phát
triển kinh tế du lịch phù hợp với tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tạo nên thế mạnh chung
của nền kinh tế.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, sức mạnh của cả hệ thống chính
trị và toàn xã hội trong quá trình phát triển kinh tế du lịch được phát huy. Tinh thần
dân chủ trong việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế du lịch
được thể hiện rõ nét, là cơ sở quan trọng để các nhà đầu tư tích cực tham gia vào
các hoạt động kinh doanh du lịch.
Đảng bộ Tỉnh đã tích cực chỉ đạo các cấp, các ngành, thực hiện đồng bộ các
biện pháp, huy động rộng rãi nguồn lực từ các thành phần kinh tế tham gia phát
triển. Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở, vật chất phục vụ kinh tế du lịch. Công tác
148
quản lý nhà nước, từng bước được tăng cường. Các loại hình du lịch và các sản
phẩm du lịch phát triển phong phú đa dạng, thể hiện rõ tính đặc trưng của vùng,
miền. Hoạt động kinh doanh du lịch tăng trưởng khá trên tất cả các mặt, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; giải quyết nhiều vấn đề về kinh tế,
xã hội, nhất là việc làm cho người lao động; giữ gìn phát triển văn hóa, bảo vệ môi
trường sinh thái. Kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển ngày càng
toàn diện, theo hướng bền vững.
Từ thực tiễn công tác lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã đúc
kết được những kinh nghiệm, góp phần khắc phục các mặt hạn chế đưa du lịch của
tỉnh phát triển đúng với chiến lược đề ra đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
KẾT LUẬN
1. Yếu tố về vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên; kinh tế - xã hội Bà
Rịa - Vũng Tàu là tỉnh có nhiều thuận lợi ít nơi có được để phát triển kinh tế
du lịch quanh năm. Khí hậu, tài nguyên biển, đảo với nhiều bãi biển đẹp,
nhiều di tích lịch sử văn hóa là tiềm năng lớn để tỉnh tận dụng và phát huy,
phát triển du lịch đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Xét về tài nguyên du
lịch nhân văn, đây là yếu tố có vai trò quan trọng, được khai thác để tạo thành
sản phẩm du lịch độc đáo. Bà Rịa - Vũng Tàu sở hữu một nguồn tài nguyên
dồi dào về di lịch lịch sử, danh lam thắng cảnh, lễ hội là tiềm năng, thế mạnh
mà nhiều nơi khác không có được.
Kế thừa và phát huy những kết quả đạt được trong lãnh đạo phát triển
thời kỳ Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ rất
sớm đã nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế du lịch. Từ đó, sớm có chủ
trương phát triển kinh tế du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, phấn đấu trở
thành trung tâm du lịch lớn của cả nước. Trải qua mỗi chặng đường trong 25
năm cùng đất nước đổi mới, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã đánh dấu
149
những bước tiến quan trọng trong nhận thức và thực tiễn lãnh đạo không
ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả của ngành kinh tế du lịch.
Quá trình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ đề ra, Đảng bộ Tỉnh đã tận
dụng những yếu tố thuận lợi, tập trung chỉ đạo đổi mới công tác quản lý nhà
nước, xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế du lịch, hình thành quy hoạch
phát triển các khu du lịch trọng điểm của tỉnh; tăng cường đào tạo nguồn nhân
lực; đa dạng hoá các loại hình du lịch, các sản phẩm du lịch; đầu tư khai thác
các loại hình du lịch thế mạnh, xây dựng sản phẩm du lịch độc đáo của tỉnh; thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển cơ sở hạ tầng; mở rộng liên kết vùng, tăng
cường đầu tư trong công tác truyền thông - tuyên truyền - quảng bá, nâng cao
năng lực cạnh tranh của du lịch...
2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
ngày càng phát triển. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính quyền
Tỉnh từng bước đi vào cuộc sống, đáp ứng mong đợi của người dân. Chủ
trương xã hội hóa hoạt động du lịch đã huy động mọi nguồn lực đầu tư cho
phát triển kinh tế du lịch. Qua đó, phát huy cao độ tinh thần và sức mạnh của
hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, nhân dân tham gia các hoạt động du
lịch. Môi trường du lịch ngày càng văn minh, phong phú và hấp dẫn. Hình
ảnh du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng trở nên thân thiện với du khách
trong nước và quốc tế. Nhiều sản phẩm du lịch trở thành thương hiệu độc đáo
của cả nước. Kinh tế du lịch phát triển ngày càng toàn diện, theo hướng bền
vững, đóng góp lớn cho sự tăng tưởng chung của tỉnh, tạo việc làm và nâng
cao chất lượng cuộc sống người dân, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa, góp phần quan trọng trong công tác bảo vệ an ninh - quốc phòng.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch, Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu còn bộc lộ một số hạn chế. Từ nhận thức chưa đầy đủ
về vị trí, vai trò kinh tế du lịch của một bộ phận trong cấp ủy, chính quyền
gây nên những hạn chế trong một số chủ trương, chính sách, làm ảnh hưởng
150
đến tốc độ tăng trưởng của kinh tế du lịch. Có giai đoạn, Đảng bộ Tỉnh chưa
nhìn nhận hết tiềm năng, thế mạnh du lịch của tỉnh để đầu tư khai thác, nhất là
đối với hệ thống di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, lễ hội và môi trường sinh
thái nên chưa thu hút nhiều lượng khách du lịch cả trong nước và quốc tế. Đảng
bộ tỉnh có những lúc chưa thể hiện sự quyết liệt trong chỉ đạo kinh tế du lịch ở
một số thời điểm nên một số chính sách về đầu tư cơ sở vật chất, thu hút đầu tư
nước ngoài, về phát triển loại hình du lịch, sản phẩm du lịch chưa được phát
huy. Quy hoạch phát triển kinh tế du lịch còn chậm triển khai thực hiện.
3. Một số kinh nghiệm được đúc kết trên cơ sở phân tích, đánh giá từ
thực tiễn quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của Đảng bộ Tỉnh có ý
nghĩa khoa học nhất định. Trong đó, quan trọng và trước nhất, là kinh nghiệm
từ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước và sức mạnh của hệ thống
chính trị và tinh thần đoàn kết của nhân dân trong phát triển kinh tế nói chung
và kinh tế du lịch nói riêng. Những kinh nghiệm gắn với khai thác tiềm năng
thế mạnh, tận dung cơ hội, thúc đẩy kinh tế du lịch của địa phương phát triển
có chất lượng, hiệu quả là cơ sở quan trọng góp phần bổ sung thêm vào lý
luận lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng trong thực tiễn hiện nay.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Đinh Văn An (2017), “Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo
phát triển kinh tế du lịch (1991- 2015)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3),
tr. 92 - 95.
2. Đinh Văn An (2017), “Bà Rịa - Vũng Tàu hướng tới phát triển kinh
tế du lịch nhanh và bền vững”, Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung
ương, (8), tr. 37 - 41 .
3. Đinh Văn An (2017), “Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển du lịch
thành ngành kinh tế mũi nhọn”, Tạp chí Lý luận chính trị (8), tr.
72 - 77.
4. Đinh Văn An (2018), “Một số kinh nghiệm của đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu trong lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (01), tr. 81 - 84.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Hoàng Tuấn Anh (2008), “Du lịch Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 144, tr.22-26.
2. Trần Thuý Anh, Nguyễn Thu Thuỷ và Nguyễn Thị Anh Hoà (2004), Ứng
xử văn hoá trong Du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Trần Xuân Ảnh (2011), Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập kinh
tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4. Đào Đình Bắc (2001), Quy hoạch du lịch, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Bí thư Trung ương (1994), Chỉ thị 46-CT/TW, ngày 14/10/1994, về
lãnh đạo, đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2000), Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tập I (1930 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2000), Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tập II (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2015), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu (1975 - 2010), Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.
9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Bảo tàng tổng hợp Bà Rịa - Vũng Tàu (1996), Di tích, danh thắng Bà Rịa
- Vũng Tàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Thanh Bình (2011), “Phát triển bền vững cơ sở lưu trú du lịch
vùng biển, đảo”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 6.
153
12. Bộ Chính trị (1998), Thông báo số 179/TB-TW ngày 11/1/1998 về việc
phát triển du lịch trong tình hình mới, Hà Nội..
13. Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 19/01/2017 về phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Hà Nội..
14. Bộ Công an - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2009), Thông tư liên tịch
số 06/2009/TTLT-BCA-BVHTTDL, ngày 22/7 về Hướng dẫn phối hợp
công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội trong hoạt
động du lịch.
15. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2008), Quyết định số 1224/QĐ-
LĐTBXH, ngày 16/09/2008 về Trường Trung học nghiệp vụ Du lịch Vũng
Tàu chính thức nâng cấp thành trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu.
16. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2007), Quyết định số 564/QĐ-BVHTTDL
ngày 21/9 về việc ban hành Chương trình của ngành Du lịch.
17. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2010), Quyết định số 3146/QĐ-
BVHTTDL ngày 8/9 về phê duyệt nội dung đề cương Đề án “Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030”.
18. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Quyết định số 2782/QĐ-
BVHTTDL ngày 15/8 về phê duyệt Đề án “Phát triển du lịch biển, đảo
và vùng ven biển Việt Nam đến năm 2020”.
19. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Quyết định 3455/QĐ-BVHTTDL
ngày 20/10 về phê duyệt chiến lược marketing du lịch đến năm 2020.
20. Minh Chính (2004), “Phát triển Văn hóa, Du lịch - Thế mạnh của Bà Rịa -
Vũng Tàu”, Tạp chí Xây dựng, số 10.
21. Chính phủ (1993), Nghị quyết số 45-CP ngày 22/6 về đổi mới quản lý và
phát triển du lịch, Hà Nội..
22. Chính phủ (2014), Nghị Quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12 về một số giải pháp
đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới, Hà Nội.
154
23. Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1995), Thành tựu kinh tế - xã hội
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sau 20 năm giải phóng (1975 - 1995).
24. Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2005), Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 15
năm đổi mới (1991 - 2005).
25. Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2012), Số liệu thống kê từ năm
2002 đến năm 2012.
26. Phạm Diêm (2007), Bà Rịa - Vũng Tàu con số và sự kiện, Nxb. Khoa học
Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Hoàng Nghĩa Doãn (2010), “Côn Đảo với mục tiêu trở thành khu kinh tế du
lịch - dịch vụ chất lượng cao”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 17.
28. Trần Thị Kim Dung (2001), Một số giải pháp hoàn thiện quản trị nguồn
nhân lực trong các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh.
29. Nguyễn Tiến Dũng (2002), “Các chiến lược phát triển du lịch”, Tạp chí Du
lịch Việt Nam, số 8, tr.32-35.
30. Nguyễn Tuấn Dũng (2016), “Phát triển kinh tế du lịch biển - đảo gắn với bảo
đảm quốc phòng - an ninh trong bối cảnh hội nhập hiện nay”, Tạp chí
phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 19, số X5-2016.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
và hội nhập, NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
39. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1992), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ I (1992 - 1995). Lưu tại Phòng Lưu
trữ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
40. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ II (1996 - 2000). Lưu tại Phòng Lưu
trữ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
41. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ III (2001 - 2005). Lưu tại Phòng Lưu
trữ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
42. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ IV (2005 - 2010). Lưu tại
Phòng Lưu trữ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
43. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ V (2011- 2015). Lưu tại Phòng
Lưu trữ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
44. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI (2015- 2020). Lưu tại
Phòng Lưu trữ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
45. Hoàng Thị Điệp (2011), “Phát triển kinh tế du lịch biển Việt Nam trong
thời kỳ hiện nay”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 4.
156
46. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh (2012), Tâm lý và nghệ thuật giao
tiếp, ứng xử trong kinh doanh du lịch, Nxb. Đại học kinh tế Quốc dân,
Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hoà (chủ biên), (2004), Kinh tế Du lịch,
Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
48. Vũ Văn Đông (2013), “Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu năm 2012 và triển
vọng năm 2013”, Tạp chí nghiên cứu Tài chính - Maketing, số 13&14.
49. Vũ Văn Đông (2014), Phát triển Du lịch bền vững Bà Rịa - Vũng Tàu, luận
án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Bách khoa Hà Nội.
50. Nguyễn Đức (2011), “Phát triển du lịch giai đoạn 1996 - 2010: Sự chuyển
mình mạnh mẽ”, Báo Bà Rịa - Vũng Tàu, số Xuân.
51. Nguyễn Hồng Giáp (2002), Kinh tế Du lịch, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
52. Vũ Mạnh Hà (2014), Kinh tế Du lịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Thu Hạnh (2009), “Đô thị du lịch biển Việt Nam và những thách thức
trên con đường phát triển bền vững”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 12.
54. Trương Thị Thu Hằng (2012), “Phát triển du lịch giai đoạn 1996 - 2010:
Tôn giáo và du lịch tại đảo Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 6 (166).
55. Nguyễn Thị Hiền (2013), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát
triển du lịch từ năm 2001 đến năm 2012, Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
56. Trần Thị Minh Hòa (2015), Du Lịch Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb. Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
57. Phạm Trương Hoàng (2011), “Định vị du lịch biển Việt Nam”, Tạp chí
Du lịch Việt Nam, số 4 và 5.
58. Nguyễn Chu Hồi (2010), “Phát triển du lịch biển bền vững bảo vệ môi
trường sinh thái”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2.
157
59. Nguyễn Lan Hương (2014), “Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tiềm năng
và thực trạng phát triển”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4.
60. Hội đồng Nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1991), Nghị quyết số 52/NQ-
HĐND ngày 04/8 về việc thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
61. Phạm Quang Khải (2005), Nghiên cứu giải pháp đầu tư và khai thác
tiềm năng văn hóa phục vụ du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Lưu trữ tại
Sở khoa học và công nghệ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
62. Nguyễn Trùng Khánh (2012), Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông
Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
63. Đinh Kiệm (2013), “Phát triển du lịch sinh thái các tỉnh vùng duyên hải
cực Nam Trung Bộ đến năm 2020”, luận án Tiến sĩ Trường đại học Kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh.
64. Đinh Trung Kiên (2004), Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, Nxb. Đại học Quốc
gia, Hà Nội, in lần thứ 5.
65. Kỷ yếu Hội thảo (2007) “Nghiên cứu và đào tạo nhân lực du lịch ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, Trường đại học Khoa học xã hội
và nhân văn tổ chức ngày 5/8/2007.
66. Nguyễn Thị Hồng Lâm (2013), Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
67. Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái những vấn đề lý luận và thực
tiễn phát triển ở Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Lưu (2009), Thị trường du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
69. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (Trung Quốc) (2000), Kinh tế du lịch
và Du lịch, Nxb. Trẻ (dịch).
158
70. Trần Quốc Nhật (1996), Phát triển du lịch ở Bà Rịa - Vũng Tàu, luận văn
thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
71. Thạch Phương - Nguyễn Trọng Minh, (2005), Địa chí Bà Rịa - Vũng Tàu,
Nxb. Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
72. Đỗ Văn Quất (2001), Định hướng và những chính sách cơ bản để phát triển
ngành du lịch Việt Nam đến năm 2010, luận án tiến sĩ kinh tế chính trị xã
hội, trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
73. Quốc hội Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Du lịch số
44/2005/QH11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Quốc hội Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2013), Luật Du lịch năm
2005 và văn bản hướng dẫn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Trương Sĩ Quý (2002), Phương hướng và một số giải pháp để đa dạng
hóa loại hình và sản phẩm du lịch ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội,
76. Trần Minh Sanh (2008), “Bà Rịa - Vũng Tàu phát huy lợi thế, tập trung
phát triển tốt các ngành du lịch”, Tạp chí Cộng sản, số 788 (6).
77. Dương Văn Sáu (2007), Di tích Lịch sử - Văn hóa và danh thắng Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
78. Nguyễn Đình Sơn (2007), Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ
và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh, luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội.
79. Lê Thanh Sơn (2011), “Chính sách phát triển kinh tế ven biển và hải đảo
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thực trạng và vấn đề đặt ra”, Tạp chí Công
nghiệp Việt Nam, số 8.
80. Sở Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (1997), Báo cáo số 143/BC.SDL ngày
30/12 về tổng kết hoạt động 5 năm (1993 - 1997) và chương trình hành
động năm 1998 của Ngành du lịch Tỉnh.
159
81. Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2000), Báo cáo số 9/BC.SDL ngày
13/7 về đánh giá thực trạng ngành du lịch giai đoạn 1996 - 2000 và
định hướng giải pháp phát triển đến năm 2005.
82. Sở Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (2002), Báo cáo số 201/SDL-HCTH ngày
25/7 về quá trình triển khai thực hiện đề án phát triển du lịch tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2001 - 2005.
83. Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2005), Báo cáo số 70 ngày 21/11/2005
về kết quả thực hiện Đề án Phát triển du lịch giai đoạn 2001 - 2005,
phương hướng, nhiệm vụ phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010.
84. Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2005), Báo cáo số 76/BCDL ngày
22/12, về tổng kết năm 2005 và kế hoạch 2006 ngành du lịch tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu.
85. Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2006), Báo cáo số 60/BC.SDL ngày
08/11 về đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2006 và phương
hướng nhiệm vụ năm 20007 ngành du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
86. Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (2008), Báo cáo số
711/SVHTTDL-VP, ngày 16/12 về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm
2008, phương hướng, nhiệm vụ năm 2009.
87. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2011), Báo cáo số
310, ngày 05/ 9/2011, về tổng kết 20 năm Du lịch tỉnh (1991 - 2011).
88. Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (2011), Du lịch Bà
Rịa - Vũng Tàu 20 năm chặng đường phát triển (1991 - 2011),
89. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2011), Báo cáo
số 662/SVHTTDL ngày 15/6 về tình hình thực hiện NQ số 05-NQ/TU
ngày 27/5/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về phát triển du lịch đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2015.
160
90. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2011), Báo cáo
số 519/SVHTTDL ngày 12/5 về tổng quát thành tựu ngành du lịch từ
1993 - 2011.
91. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (2015), Báo cáo số
161/BC-SVHTTDL ngày 11/11/2015 về tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển sự nghiệp văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch năm
2015, phương hướng nhiệm vụ 2016.
92. Sở Văn hóa - Thông tin (1999), Báo cáo số 88/SVHTT ngày 25/8 về 5 năm
hoạt động Văn hoá Thông tin tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1994 - 1999).
93. Sở Văn hóa - Thông tin Bà Rịa - Vũng Tàu (1999), Bà Rịa - Vũng Tàu đất
và người, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
94. Nguyễn Văn Tài (2001): Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển
kinh tế du lịch thời kỳ đổi mới (1986 - 2001), Luận văn thạc sĩ lịch sử
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
95. Trần Đức Thanh (2005), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
96. Hoàng Văn Thành (2014), Văn hóa Du lịch , Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
97. Nguyễn Quyết Thắng (2012), “Nghiên cứu tiềm năng và các giải pháp
phát triển du lịch sinh thái tại một số trọng điểm vùng du lịch Bắc
Trung Bộ”, luận án Tiến sĩ, Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội.
98. Tạ Việt Thắng (2013), “Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu và một số định hướng
phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 426.
99. Võ Thị Thắng (2005), “Phát triển du lịch Việt Nam trong tình hình mới”,
Tạp chí Cộng sản, số 727.
100. Đỗ Cầm Thơ (2011), “Xây dựng thương hiệu du lịch biển Việt Nam”,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 4.
161
101. Vũ Thị Thoa (2011), “Phát triển du lịch biển gắn với bảo vệ môi
trường”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 5.
102. Thủ tướng Chính phủ (1995), Quyết định số 307/QĐ-TTg Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010, Hà Nội.
103. Thủ tướng Chính phủ (2000), Chỉ thị số 07/2000/CT-TTg ngày 30/3 về tăng
cường giữ gìn trật tự, trị an và vệ sinh môi trường tại các địa điểm tham
quan, du lịch, Hà Nội.
104. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg ngày 22/7 về
phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010, Hà Nội.
105. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 121/2006/QĐ-TTg ngày
29/5/2006 về phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về du lịch
giai đoạn 2006 – 2010, Hà Nội..
106. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 15/2007/QĐ-TTg phê duyệt
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
giai đoạn 2006 - 2015, định hướng đến năm 2020, Hà Nội..
107. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 2190/ĐT-TTg ngày 24/12
phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội..
108. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1518/QĐ-TTg ngày 05/9 về
Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đến năm 2030, Hà Nội..
109. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011
về chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030,
Hà Nội..
110. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày
22/01/2013 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội..
162
111. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 2151/QĐ-TTg ngày 11/11 về phê
duyệt Chương trình xúc tiến du lịch quốc gia giai đoạn 2013 -2020, Hà Nội.
112. Vũ Đình Thuỵ (1996), Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để phát
triển du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn, Luận án Tiến sĩ
khoa học kinh tế, Trường Đại học kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
113. Trần Hậu Thự (1990), Kinh tế du lịch, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
114. Nguyễn Trọng Tín (2004), “Ngành du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu ba năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ III”, Tạp chí Kinh tế và
Dự báo, số 4.
115. Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu (1991), Báo cáo số 04/BC-TV ngày 21/11 về
Báo cáo tình hình về hiện trạng và khả năng phát triển các mặt của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
116. Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (1997), Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 02/10 về
một số nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội huyện Côn Đảo
đến năm 2000.
117. Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (1998), Nghị quyết số 17/NQ-TV ngày 05/12
về phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2000.
118. Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (1999), Báo cáo số 112-BC/KT ngày 05/10
về phát triển kinh tế biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
119. Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (2000), Báo cáo số 26-BC/TU ngày 04/4 về
việc kiểm tra thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TV của Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ về phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2000.
120. Tỉnh uỷ, UBND Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Bà Rịa - Vũng Tàu - Dấu ấn
một thập kỷ.
121. Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (2008), Nghị quyết số 05/NQ-TV ngày 27/5
Về phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2015.
163
122. Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu (2009), Thông báo số 821-TB/TU ngày
13/11 về Kết luận giám sát việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 05-
NQ/TU ngày 27/5/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển kinh
tế du lịch đến năm 2010 và tầm nhìn 2015.
123. Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (2009), Báo cáo thực hiện kế hoạch số
68/KH-TU ngày 26/11 về kết quả giám sát việc triển khai, thực hiện
Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 27/5/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về
phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm
nhìn đến 2015 trên địa bàn tỉnh.
124. Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (2014), Thông báo số 1584-TB/TU ngày
26/11 về Kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về Quy hoạch tổng thể
phát triển Khu du lịch quốc gia Côn Đảo đến năm 2030.
125. Tổng cục Du lịch (1997), Hệ thống văn bản hiện hành về quản lý du lịch,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
126. Tổng cục Du lịch (1998), Các chỉ tiêu dự báo phát triển ngành trong quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ 1995 - 2000
và định hướng 2010, Hà Nội.
127. Tổng cục Du lịch (2000), Một số định hướng và giải pháp phát triển du
lịch Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Hà Nội.
128. Tổng cục Du lịch (2001), Báo cáo 3 năm thực hiện Thông báo Kết luận 179
của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trong tình hình mới. Hà Nội.
129. Tổng cục Du lịch (2003), Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai
đoạn 2001 - 2010 và định hướng đến 2020, Hà Nội.
130. Nguyễn Thị Tú (2006), Những giải pháp phát triển du lịch sinh thái Việt
Nam trong xu thế hội nhập, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học
Thương mại, Hà Nội.
164
131. Nguyễn Anh Tuấn (2010), Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt
Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.
132. Nguyễn Minh Tuệ và công sự (1977), Địa lý du lịch Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
133. Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển Bách
khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa.
134. Mai Thị Ánh Tuyết (2007), Phát triển du lịch tỉnh An Giang đến năm 2020,
Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
135. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1993), Quyết định số 593/QĐ-UB ngày
18/9 thành lập Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
136. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1995), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1995 - 2010),Bà Rịa - Vũng Tàu.
137. UBND Bà Rịa - Vũng Tàu (1996), Quyết định số 133/QĐ-UBT ngày
18/01 về Đề án Quy hoạch tổng thể phát triển ngành du lịch Bà Rịa -
Vũng Tàu giai đoạn 1996 – 2000, Bà Rịa - Vũng Tàu.
138. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2000), Chỉ thị số 27/2000/CT-UB ngày
19/4/2000 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 07/2000/CT-TTg ngày
30/3 của Thủ Tướng Chính phủ Về tăng cường giữ gìn trật tự, trị an và vệ
sinh môi trường tại các địa điểm tham quan, du lịch, Bà Rịa - Vũng Tàu.
139. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2000), Báo cáo số 65/BC-UB ngày 23/11
về thực hiện đầu tư 5 năm 1996 - 2000 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
140. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Báo cáo số 68/BC.UB ngày 05/10 về
Tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ 5 năm 1996 - 2000 và kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005, Bà Rịa - Vũng Tàu.
141. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Đề án “Phát triển du lịch tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu” giai đoạn 2001 – 2005, Bà Rịa - Vũng Tàu.
142. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2003), Bà Rịa - Vũng Tàu thế
và lực mới trong thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
165
143. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2004), Báo cáo số 08/BC.UB ngày 18/3 về
Kết quả thực hiện Chỉ thị 07/2000/CT.TTG ngày 30/3/2000 của Thủ
tướng Chính phủ về việc tăng cường giữ gìn trật tự trị an - vệ sinh môi
trường tại các điểm tham quan du lịch, bãi tắm, Bà Rịa - Vũng Tàu.
144. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2004), Quyết định số 1727/2004/QĐ-UB
ngày 15/4/2004 của UBND tỉnh về ban hành Quy chế quản lý và tổ
chức kinh doanh dịch vụ du lịch tại các bãi tắm thuộc tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu.
145. UBND Bà Rịa - Vũng Tàu (2004), Quyết định 8737/2004/QĐ-UB ngày
05/11/2004 về Quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
146. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2005), Quyết định số 1828/2005/QĐ-
UBND ngày 13/6 về Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch phù hợp
với tình hình mới, Bà Rịa - Vũng Tàu .
147. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2005), Quyết định số 4745/QĐ-UBND, ngày
09/12 về phê duyệt đề án tổ chức và hoạt động du lịch sinh thái tại Khu
bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu giai đoạn 2005 - 2010.
148. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2006), Sắc màu du lịch Bà Rịa - Vũng
Tàu. Tài liệu lưu trữ Văn phòng UBND tỉnh.
149. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2006), Quyết định số
4262/2006/QĐ-UBND, ngày 21/11 về việc ban hành quy chế tạm thời
về quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát huy di tích lịch sử - văn hóa và
danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
150. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2006), Bà Rịa - Vũng Tàu đổi mới và
phát triển, Xí nghiệp In Lê Quang Lộc, TP. Hồ Chí Minh.
151. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2008), Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2006 - 2015 và
định hướng đến năm 2020.
166
152. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2009), Quyết định số 15/2009/QĐ-
UBND ngày 20/02/2009 ban hành Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27/5 về phát triển kinh tế du lịch
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2015.
153. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2010), Báo cáo số 147/BC-UBND ngày
20/12 về tình hình quản lý nhà nước và thực hiện các dự án đầu tư
du lịch và nghỉ dưỡng giai đoạn 2001 - 2010 trên địa bàn Tỉnh.
154. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2011), Chỉ thị số 01/2011/CT-UBND
ngày 11/01 về việc tăng cường công tác thống kê du lịch trên địa bàn
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
155. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2012), Quyết định 1756/QĐ-UBND ngày
29/8/2012, Kế hoạch hành động từ nay đến năm 2020 thực hiện Chiến
lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
156. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2014), Quyết định 865/QĐ-UBND ngày
24/4/2015 ban hành kèm theo Kế hoạch hành động số 28/KH-UBND thực
hiện Nghị quyết 92/NQ-CP ngày 08/12 của Chính phủ về một số giải pháp
đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới, Bà Rịa - Vũng Tàu.
157. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2015), Kế hoạch số 28/KH-UBND ngày
28/4 về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong
thời kỳ mới, Bà Rịa - Vũng Tàu.
158. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2015), Nâng cao chất lượng dịch vụ,
đảm bảo môi trường du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời kỳ hội
nhập và phát triển, Kỷ yếu hội thảo của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, lưu trữ tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh.
159. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2016) Báo cáo số 156-BC/BCS, ngày 12/10
về tình hình triển khai thực hiện NQ số 05-NQ/TU ngày 27/5/2008 của
Ban thường vụ Tỉnh ủy về phát triển kinh tế du lịch đến năm 2010 và
tầm nhìn đến 2015, Bà Rịa - Vũng Tàu.
167
160. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1999), Pháp lệnh Du lịch Việt Nam ngày
08/02/1999, Hà Nội.
161. La Nữ Ánh Vân (2012), Phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan
điểm phát triển bền vững, Luận án tiến sĩ địa lý, Trường đại học sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
162. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2001), đề tài, Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội.
163. Nguyễn Tấn Vinh (2008), Hoàn thiện quản lý Nhà nước về du lịch trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học kinh
tế quốc dân, Hà Nội.
164. Vũ Xuân (1996), Tổng quan tiềm năng du lịch Việt Nam trong giai đoạn
chuyển đổi nền kinh tế 1986 - 1995.
165. Bùi Thị Hải Yến (2010), Quy hoạch Du lịch, Nxb. Giáo dục Việt Nam,
tái bản lần thứ 3, Hà Nội.
166. Bùi Thị Hải Yến, Phạm Hồng Long (2011), Tài nguyên du lịch, Nxb.
Giáo dục.
167. Bùi Thị Hải Yến và các cộng sự (2012), Du lịch Cộng đồng, Nxb Giáo dục.
II. Tài liệu bằng tiếng nƣớc ngoài
168. Alastai M.Morrison (2013), Marketing and Managing Tourism
Destinations Taylor & Fracis Ltd.
169. David Weaver & Laura Lawtonn (2013), Tourism Management, John
Wiley and Sons Ltd.
170. G.Cazes - R. Lanquar - Y. Raynouard (2000), Quy hoạch Du lịch, NXb.
Đại học Quốc gia Hà Nội.
171. John Tribe (1995), The Economics of Leisure and Tourism, Butterworth
- Heinemann Ltd.
168
172. John Ward, Phil Higson và William Campbell (1994), Leisure and
Tourism Stanley Thomes Ltd.
173. S.Medlik (1991), Managing Tourism, Butterworth - Heinemann Ltd.
174. Susan A.Weston (1996), Commercial Recreation & Tourism - An Introduction
to Business Oriented Recreation, Nxb. Brown & Benchmark.
175. Robert Lanquar (1993), Kinh tế du lịch, Nxb. Thế giới.
176. William Theobald (1994), Global Tourism - The next decade,
Butterworth - Heinemann Ltd.
169
PHỤ LỤC
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
170
Bản đồ Tổng thể du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu
Nguồn: Sở Tài Nguyên - Môi trường
Chú thích:
1. Khu du lịch thành phố Vũng Tàu
2. Khu du lịch Phước Hải - Long Hải
3. Khu du lịch Hồ Tràm - Hồ Cốc
4. Khu du lịch Bình Châu - Phước Bửu
5. Khu du lịch Côn Đảo.
1 2
2
3
4
5
171
PHỤ LỤC 1
Bảng 1 : Tổng hợp hoạt động du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Nội dung 1990 1995 2000 2005 2010 2015
Cơ sở lưu trú
- Số khách sạn
- Số phòng
100
3.155
62
2.239
72
2.752
86
7.192
162
6.722
255
9.265
Lượt khách (ngàn lượt)
- Khách Quốc tế
- Khác nội địa
1.620
110
1.510
4.499
536
3.963
3.303
141
3.162
5.320
220
5.100
8.435
320
8.115
15.538
558
14.980
Lao Động (người)
- ĐH và sau ĐH
- Trung cấp và CĐ
- Công nhân kỹ thuật
- Khác
3.745
350
385
2.095
95
4.894
660
158
2.076
2.000
4.260
615
558
1.960
1.127
6.041
1.003
1.083
2.049
1.906
11.145
1.114
5.015
2.229
2.787
16.520
2.478
6.608
4.956
2.478
Doanh thu (tỷ đồng) 269 440 880 889 1.782 5.597
Nộp NSNN (tỷ đồng) 2.136 49,51 58 64 120 378
Nguồn: [39, 40, 41, 42, 43, 44].
Bảng 2: Các đơn vị lữ hành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Nội dung ĐVT 1993 1995 2000 2005 2010 2015
Các đơn vị
lữ hành
Đơn vị 4 7 9 16 18 32
Quốc tế - 3 5 6 7 9 15
Nội địa - 1 2 3 9 9 20
Nguồn: Tờ trình số 20-TTr-UBND, ngày 25/4/2016 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
172
Bảng 3: Số liệu cơ sở lƣu trú du lịch đƣợc xếp hạng tại tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu giai đoạn 2006 - 2015
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
5 sao - - - 1 1 1 3 3 3
số phòng - - - - 144 144 144 804 804 804
4 sao 3 5 5 6 7 7 9 13 13 15
số phòng 269 679 679 764 833 856 1.173 1.067 1.607 1.868
3 sao 8 8 8 9 10 13 15 18 19 20
số phòng 678 678 678 763 798 963 1.088 1.192 1.295 1.316
2 sao 18 20 22 29 29 29 32 35 38 45
số phòng 867 1.007 1.107 1.515 1.265 1.265 1.706 1.808 1.856 2.203
1 sao 7 17 20 24 30 32 39 54 60 73
số phòng 435 544 611 723 895 950 1.006 1.449 1.551 1.692
Nguồn: Tờ trình số 20-TTr-UBND, ngày 25/4/2016 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Bảng 4. Doanh thu dịch vụ Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trung bình 5
năm từ 1992 - 2015
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Tổng Doanh thu
Số lƣợng Tốc độ tăng bình quân (%)
1992 - 1995 1.175 38,7
1996 - 2000 2.070 8,5
2001 - 2005 3.578 13,3
2006 - 2010 6.538 14,8
2011 - 2015 16.377 26,0
Nguồn: [39, 40, 41, 42, 43, 44].
173
Bảng 5. Số liệu cơ sở lƣu trú du lịch đƣợc xếp hạng tại tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu giai đoạn 2006 - 2015
Nguồn: Tờ trình số 20-TTr-UBND, ngày 25/4/2016 của UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Số khách
sạn 1 sao -
5 sao
36 50 55 68 77 82 96 123 133 156
Tổng số
phòng 2.249 2.908 3.075 3.765 3.935 4.178 5.117 6.320 7.113 7.883
Tiêu
chuẩn KD
du lịch
45 38 39 43 40 41 44 56 60 96
số phòng 1.074 983 1.022 1.080 994 1.060 884 1.087 927 1.287
Căn hộ,
biệt thự
DL cao cấp
1 1 1 1 1 3 3 3 3 3
Số phòng 69 69 69 69 69 95 95 95 95 95
Tổng số
CSLT 82 89 95 112 118 126 143 182 196 255
Tổng số
phòng 3.392 3.960 4.166 4.914 4.998 5.333 6.096 7.502 8.135 9.265
174
PHỤC LUC 2
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CỦA TỈNH BÀ RIA – VŨNG TÀU
1. Bạch Dinh - Vũng Tàu
Công trình được khởi công
vào năm 1898, mãi đến năm 1902
mới hoàn thành. Bạch Dinh được
sơn màu trắng bên ngoài nên
người Việt quen gọi dinh thự này
là Bạch Dinh. Từ năm 1907 đến
1916 nơi đây từng được dùng làm
nơi nghỉ mát cho Toàn Quyền Đông Dương, Hoàng Đế Bảo Đại và các đời
tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Đây cũng là nới chính quyền thuộc địa Pháp
làm nơi giam lỏng vua Thành Thái. Năm 1934 Bạch Dinh được nhượng lại để
làm nơi nghỉ mát cho Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương. Trong
những năm sau đó, Bạch Dinh luôn được dùng làm nơi nghỉ mát của nguyên
thủ hoặc các quan chức cao cấp của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 4-8-1992 Bạch Dinh được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là
di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Bạch Dinh được dùng làm nhà bảo
tàng, trưng bày các đồ gốm vớt được từ xác tàu cổ đắm tại khu vực Hòn Cau-
Côn Đảo, súng thần công cùng nhiều hiện vật có giá trị khác được tìm thấy
qua các đợt khai quật khảo cổ ở Bà Rịa - Vũng Tàu.
2. Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo
Nguồn, ảnh: Ban quản lý di tích Côn Đảo
Nguồn và ảnh: Ban quản lý di tích Bạch Dinh.
175
Khu di tích lịch sử Côn Đảo (Nhà tù Côn Đảo) thuộc huyện Côn Đảo,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, gồm hệ thống nhà tù ở Côn Đảo và các nghĩa trang
thuộc hệ thống nhà tù này. Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt
lập - “chuồng cọp” tại khu vực Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống
nhất (1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể. Năm 1979,
Khu di tích lịch sử Côn Đảo đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia, với 17 di tích.
3. Dinh chúa đảo - Côn Đảo
Xây dựng khoảng 1862 - 1876 cùng với các cơ sở hạ tầng trên đảo. Tại
đây, 53 đời Chúa đảo trải qua 113 năm (1862-1975). Trong đó 92 thời thực
dân Pháp có 39 chúa đảo và 12 năm thời đế quốc Mỹ có 14 chúa đảo đã sống
và làm việc. Nơi đây, Chúa đảo Angdua đã bị tù nhân sát hại năm 1919. Là
đầu não trung tâm của hệ thống nhà tù, tất cả bộ máy cai trị tù từ chúa đảo đến
các quan chức trên toàn đảo đều dưới quyền điều khiển của Chúa đảo. Tại đây
chúng đã đề ra các chính sách, biện pháp hà khắc để đàn áp, tra rấn dã man
đối với người tù.
Từ sau ngày giải phóng 01/5/1975, Dinh chúa đảo được sử dụng làm
Phòng trưng bày Khu di tích lịch sử Côn Đảo tới nay. Di tích Dinh chúa đảo
đã được, Bộ Văn Hóa - Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách
Dinh chúa đảo trước đây và hiện nay đã trùng tu lại
Nguồn và ảnh: Ban quản lý di tích Côn Đảo.
176
công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979.
Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận
là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
4. Nhà Tròn Bà Rịa
Là một trong những điểm du
lịch Vũng Tàu mang nhiều ý nghĩa
về lịch sử, là nơi ghi dấu nhiều sự
kiện quan trọng trong cuộc cách
mạng vì độc lập của người dân Bà
Rịa Vũng Tàu. Nhà tròn Bà Rịa là
một tháp nước nhưng tựa như tháp
canh mà từ đây có thể quan sát
nhiều hướng đường từ các tỉnh
thành đi vào Bà Rịa Vũng Tàu.
Nhà Tròn Bà Rịa như biểu tượng
của một kho ký ức của bao người
về một thời đau khổ có, nước mắt
có nhưng cũng đầy tự hào về sự can đảm, hy sinh cũng như tình yêu đất nước
mãnh liệt.
5. Nhà tƣởng niệm nữ anh hùng Võ Thị Sáu
Ngôi nhà lưu niệm
nữ liệt sỹ anh hùng lực
lượng vũ trang công an
nhân dân Võ Thị Sáu thật
đơn sơ, khiêm nhường bên
tỉnh lộ 23, thuộc Huyện
Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa -
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
.
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
177
Vũng Tàu. Ngôi nhà có lối kiến trúc dân dã đặc trưng của làng quê Việt Nam.
Xung quanh được che bằng các tấm ván gỗ, mái lợp ngói âm dương, nền đất.
Căn nhà dài 10m, rộng 3m gồm 2 phòng nhỏ. Phòng ngoài rộng 5m, ở giữa
bài trí tủ thờ gia tiên, kế sát bên vách phía phải là bộ đồ ván gỗ nơi chị em
Sáu thường nằm ngủ. Phía trong là nơi nghỉ của ông bà song thân. Nối giữa
phòng ngoài và vòng trong là một hành lang nhỏ thông ra phía sau nhà.
Cách đó chừng 50m về hướng đông nằm kế ngã tư tỉnh lộ 32 là khu
công viên tượng đài nữ anh hùng Võ thị Sáu đặt trang trọng tại công viên, bốn
mùa bát ngát hương hoa sứ, ngọc lan, lêkima. Tượng đúc bằng đồng, cao 7m
do tác giả Thanh Thanh sáng tác, diễn tả tư thế chị Sáu ung dung ra pháp
trường với tà áo tung bay trong gió.
178
PHỤ LỤC 3
THẮNG CẢNH THIÊN NHIÊN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
1. Bãi Đầm Trầu - Côn Đảo
Bãi Đầm Trầu
của huyện Côn Đảo là
nơi có phong cảnh tuyệt
đẹp với bờ cát vàng trải
dài dưới vách đá dựng
muôn hình thù kỳ lạ.
Trên một triền đá vươn
ra biển nổi lên hai tảng
đá lớn ngã đầu vào
nhau như đôi chim đang
âu yếm nhau. Đến Đầm Trầu, du khách còn được nghe câu chuyện về mối tình
lãng mạn nhưng nhiều oan trái của chàng Trúc Văn Cau thông minh và cô Mai
Thị Trâu duyên dáng thạo nghiệp bút nghiên. Cảm thương mối tình oan trái của
đôi bạn trẻ, dân làng Cỏ Ống đã sáng tác câu:
“Ai về nhắn gửi ông Câu
Hòn Cau cách bãi Đầm Trầu bao xa?”
2. Núi Lớn - Vũng Tàu
Núi lớn hay còn gọi là
núi Tương Kỳ, đỉnh cao nhất
có độ cao 254 m, Núi Lớn là
ngọn núi đứng sừng sững giữa
một vùng trời phía Bắc thành
phố, nơi mà được sách Gia
Định thành thông chí gọi là
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
.
.
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
.
179
thác Cơ Sơn, để chỉ rõ dáng đứng như rồng xanh, nơi chặn, đè những ngọn
gió lớn, bảo vệ, che chở cho cư dân Vũng Tàu. Khi đến với núi lớn, du khách
sẽ được cảm nhận không khí trong lành, mát mẻ, thỏa tầm nhìn quanh thành
phố. Nơi cao cao, sẽ cảm nhận được sự yên bình, tĩnh lặng, không ồn ào,
không vội vã. Nơi để hòa mình cùng thiên nhiên, cây cỏ, nơi cho ta cảm giác
dễ chịu, thoải mái đến tận cùng.
3. Bãi Sau - Vũng Tàu
Bãi Sau có nét đẹp dịu
dàng của một vùng biển quanh
năm đầy nắng ấm, một bên là
những dãy phố sầm uất nhà cao
tầng, khách sạn dáng vóc hiện
đại, đầy đủ tiện nghi, một bên là
bãi cát vàng và nhiều khu du lịch
đủ các loại hình dịch vụ giải trí
vui chơi trên biển . . . dành cho mọi lứa tuổi. Bãi Sau tràn ngập người ghé đến,
trên bờ cũng như dưới nước như không còn chỗ trống tạo nên một sức sống
của một trung tâm du lịch nổi tiếng khắp nơi. Do đó đây là bãi biển đông đúc
nhất Vũng Tàu.
4. Suối nƣớc nóng Bình Châu - Huyện Xuyên Mộc
Suối nước nóng Bình Châu là một bầu nước nóng ấm với hơn 70 điểm
phun nước lộ thiên, có nhiệt độ từ 37 độ đến 82 độ tùy khu vực. Khu nước
nóng nằm trong khu rừng nguyên sinh quốc gia có diện tích 7ha, được người
Pháp phát hiện ra từ năm 1905. Các nghiên cứu địa chất cho thấy thành phần
của suối nước nóng Bình Châu giống với các loại nước suối nổi tiếng khác
trên thế giới, có thể điều trị một số bệnh như cổ trướng, nhiễm độc mãn tính,
các bệnh ngoài da, các bệnh về thần kinh hay tim mạch.
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
180
5. Biển Long Hải
Biển Long
Hải được thiên
nhiên ban tặng
nhiều cảnh đẹp
thơ mộng. Ngoài
biển, nơi đây còn
có núi và những
rừng hoa anh đào rợp bóng, cứ mỗi dịp Tết về hoa anh đào lại bung nở làm
sáng cả góc trời. Với tiết trời mùa hè, Long Hải cũng là điểm đến thích hợp
nhờ bãi cát trắng, biển xanh, nắng rực và khu rừng trải thảm lá vàng. Bãi biển
còn nhiều nét hoang sơ, sạch sẽ thích hợp cho các nhóm phượt cắm trại để tận
hưởng thiên nhiên trong lành, mát rượi. Biển Long Hải đem đến vẻ đẹp hoang
sơ, thơ mộng, níu chân du khách. Cát vàng nơi đây mịn trải dài, càng yên bình
hơn khi được xen lẫn với màu xanh của hàng dương yên tĩnh.
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
181
PHỤ LỤC 4
LÀNG NGHỀ TẠI TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
1. Làng bún Long Kiên - Thành phố Bà Rịa
Làng nghề được hình thành
từ năm 1958, ban đầu có khoảng 5
hộ nhưng đến nay đã lên đến 30 hộ
làm nghề. Thu nhập từ nghề làm
bún đã nâng cao đời sống của
người dân nơi đây và giải quyết
việc làm cho nhiều lao động với
mức thu nhập ổn định. Là một
trong những nghề truyền thống ở địa
điểm du lịch Vũng-Tàu có thâm niên 60 năm, nghề bún Long Kiên tại phường
Phước Nguyên nổi tiếng không chỉ vì hương vị thơm ngon mà trong quá trình
sản xuất, bún không trộn lẫn bất cứ một chất phụ gia nào. Theo người dân địa
phương, khi ăn bún này, mọi người không cần phải dùng với thịt mà chỉ cần
nước chấm ngon bởi bún đã có vị béo ngọt tự nhiên.
2. Làng nghề bánh tráng An Ngãi – Huyện Long Điền
Làng bánh tráng An Ngãi cũng
được tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu công nhận
là làng nghề truyền thống đặc trưng của
địa phương bởi nguyên liệu làm bánh
sạch, không có phụ liệu gây hại sức
khỏe. Làng nghề bánh tráng An Ngãi
thuộc huyện Long Điền ở địa điểm du
lịch Bà Rịa - Vũng Tàu hoạt động rất lâu đời. Đến đây, bạn sẽ thấy những người
làm nghề đều được “cha truyền con nối”. Khâu chế biến bánh tráng giống nhau ở
mỗi vùng nhưng khác ở cách lựa chọn nguyên liệu và tâm huyết của người làm
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
.
Nguồn: Báo BRVT.
182
bánh. Bánh tráng An Ngãi nổi trội vào những dịp Tết bởi các gia đình đều không
thể thiếu bánh tráng trong mỗi bữa ăn. Khách du lịch ở nhiều nơi cũng thường tới
đây để mua tận tay loại đặc sản Vũng Tàu vừa rẻ, đảm bảo chất lượng.
4. Làng Nghề làm muối Long Điền
Làm muối là một trong những
nghề truyền thống của người dân Bà
Rịa - Vũng Tàu. Từ nhiều năm qua,
diêm dân Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn giữ
nghề làm muối theo lối truyền thống, sử
dụng quạt gió và máy bơm, đưa nước
mặn vào ô phơi. Nghề làm muối tuy
vất vả, chịu nhiều thăng trầm do biến
động thị trường những người làm muối đã quen với cái nắng cháy da và vị mặn
mòi của muối biển, dù thu nhập rất thấp. Nghề muối vất vả là thế, nhưng ngày nào
cũng vậy, khi bình minh lên, những người dân nơi đây lại ra ruộng làm việc. Muối
thu hoạch tại đây đa số cung cấp cho Kiên Giang, Phú Quốc... để sản xuất nước
mắm, chế biến hải sản, và cho các tàu cá để bảo quản hải sản.
5. Làng nghề cá Phƣớc Hải - huyện Đất Đỏ
Làng cá Phước Hải là điểm
du lịch Vũng Tàu có sức hấp dẫn
du khách yêu làng nghề theo một
cách riêng. Đây là làng nghề lâu
đời nhất khu vực Bà Rịa - Vũng
Tàu, chuyên cung cấp hai loại sản
phẩm nước mắm và cá khô lừng
danh trong cả nước. Ghé thăm làng nghề cá Phước Hải, vừa được ngắm cảnh
biển tuyệt đẹp, hoà mình cùng đời sống dung dị của ngư dân lao động vất vả
và tìm hiểu các khâu làm sản phẩm cũng như mua sắm đặc sản tại đây.
Nguồn: Văn An, ảnh: Nguyễn Hoàng Phi
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
183
PHỤ LỤC 5
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
1. Lễ Hội Nghinh Ông
Từ ngày 16 đến 18/8 âm
lịch, tại Đình thần Thắng Tam,
đường Hoàng Hoa Thám, thành
phố Vũng Tàu. Là một trong 15 lễ
hội lớn của cả nước, lễ hội Nghinh
Ông còn được xem là nét đẹp văn
hoá tiêu biểu của ngư dân miền
biển. Lễ hội rộn ràng trong ba ngày, thu hút hàng nghìn lượt khách thập
phương tới tham dự. Sau những nghi lễ truyền thống là những hoạt động văn
hóa hấp dẫn như hát bả trạo, hát bội, diễn tuồng… Hàng năm, cứ đến dịp lễ
hội, người dân và du khách thập phương từ khắp nơi lại quy tụ về đây để thắp
hương, khấn vái cầu an, tri ân các bậc tiền hiền và cá Ông, vị cứu tinh của
ngư dân miền biển.
2. Lễ Giỗ Đức Thánh Trần
Từ ngày 20/8 âm lịch, tại đền
Đức Thánh Trần, số 68 - Hạ Long,
phường 2. Đây là nghi lễ được
người dân Vũng Tàu tổ chức hàng
năm theo tập tục dân gian, nhằm bày
tỏ lòng biết ơn, kính trọng đối với
Thánh tướng Trần Hưng Đạo, người ba lần đem quân đánh bại quân Nguyên -
Mông xâm lược, đem lại thái bình, hưng thịnh cho đất nước. Đây là nét văn
hóa truyền thống tốt đẹp được gìn giữ từ đời này sang đời khác tại nhiều địa
phương trên cả nước, trong đó có Vũng Tàu. Vào dịp lễ hội, hàng nghìn lượt
du khách và người dân địa phương cùng tham dự lễ khai mạc và dâng hương.
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
184
3. Lễ hội Trùng Cửu
Đêm mùng 8 và ngày
mùng 9/9 âm lịch, tại Nhà Lớn
Long Sơn, thôn 10, xã Long Sơn.
Lễ hội không tổ chức linh đình
với cờ hoa và chiêng trống,
mà chủ yếu là dâng hương, cầu
nguyện và tưởng đến công đức
của Ông Trần với lễ vật chủ yếu
do người dân mang đến cúng kính, thể hiện đậm nét văn hóa của đạo Ông
Trần. Vào những ngày này hàng nghìn du khách thập phương tập trung về
Nhà Lớn Long Sơn để dự lễ. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng
nguyên vẹn kiến trúc cổ xưa của Nhà Lớn và một số cổ vật quý hiếm bằng gỗ
như: bộ bàn ghế Bát Tiên tương truyền là của Vua Thành Thái triều Nguyễn,
chiếc long sàng và các ghế theo kiểu dành cho vua, được chạm khắc tinh xảo,
đẹp mắt. Lễ hội Trùng Cửu ở đảo Long Sơn, cho thấy một khía cạnh trong
bức tranh đa dạng về tín ngưỡng tôn giáo, về nghệ thuật dân gian rất phong
phú. Ngoài lễ hội Trùng Cửu, đảo Long Sơn luôn là điểm đến thu hút đông du
khách thập phương.
4. Lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành
Từ ngày 16 đến 18/10 âm
lịch, tại. Miếu Bà Ngũ Hành do
ngư dân Vũng Tàu lập nên để
tôn thờ 5 vị Thần nữ là: Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Lễ hội
diễn ra trong ba ngày với các
nghi thức tế lễ trang nghiêm,
Nguồn: Tác giả điều tra thực tế và tổng hợp.
Nguồn: Báo BRVT
185
mở đầu là lễ rước cờ lọng, Ngũ sự với tiếng kèn, tiếng trống vang dội. Kế tiếp
là lễ nghinh thỉnh Bà Thủy Long Thần Nữ tại miếu Hòn Bà ở Bãi Sau của mũi
Nghinh Phong, nơi có cảnh quan thiên nhiên tuyệt sắc và miếu Hòn Bà linh
thiêng. Vào các ngày lễ, đông đảo du khách thập phương và người dân nơi
đây hội tụ về hành hương, phụng cúng rất đông vui và nhộn nhịp. Đến đây
người dân đều thành tâm, cầu mong sự bình an và may mắn. Ngoài các nghi
lễ truyền thống, còn có các chương trình múa lân, lễ xây chầu đại bội và diễn
tuồng cổ phục vụ du khách và người dân địa phương trong suốt quá trình diễn
ra lễ hội
5. Lễ hội Dinh Cô
Lễ hội Dinh Cô diễn ra
trong 3 ngày từ ngày mồng 10
đến 12 tháng 2 âm lịch tại thị
trấn Long Hải huyện Long
Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu,
để ghi nhớ công lao của vị Nữ
Thần “Long Hải Thần Nữ Bảo An
Chánh Trực Nương Nương Chi
Thần”. Vào ngày lễ, du khách từ các nơi xa gần về tham dự lễ hội và dâng
hương tưởng niệm vị Nữ Thần linh thiêng. Các ngư dân lớn tuổi trong trang
phục cổ truyền điều khiển buổi lễ theo đúng nghi thức truyền thống. Họ cầu
nguyện năm mới tốt lành, cuộc sống an bình, ấm no, hạnh phúc. Đặc biệt,
trong lễ "Nghinh Cô", còn duy trì được hình thức diễn xướng "Hát bả trạo".
Nguồn: Báo BRVT.
186
PHỤ LỤC 6
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn: TS Trần Văn Khánh
Chức vụ: Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (1991 - 2000)
Bí thư Tỉnh uỷ Bà Rịa - Vũng Tàu (2001 - 2005)
Thời gian phỏng vấn: Ngày 15 tháng 8 năm 2017
Địa điểm phỏng vấn: Tại số 13/2A Phan Đăng Lưu, thành phố Vũng Tàu
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Nghiên cứu sinh (NCS): Thưa ông, chủ trương, chính sách của
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế du lịch như thế nào?
TS Trần Văn Khánh: Từ khi mới thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
Ban Chấp hành lâm thời đã điều tra về tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Tỉnh uỷ
đã thấy rằng có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch như: bờ biển dài, khí hậu
ôn hòa, địa hình núi rừng, nhiều di tích lịch sử. Tuy nhiên, tại thời điểm năm
1991, ý đồ thì có, chủ trương thì có nhưng biện pháp thực hiện chưa đồng bộ,
cơ sở hạ tầng du lịch rất thiếu thốn; sản phẩm du lịch nghèo nàn, hầu như chỉ
có tắm biển, doanh thu du lịch đạt thấp…Từ năm 1998, Tỉnh ủy ban hành
Nghị quyết chuyên đề về phát triển du lịch, việc điều chỉnh Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch tỉnh đến năm 2010. Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo quyết
liệt, nhờ đó, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch đã khá đồng bộ và hiện đại. Chất
lượng nhân lực phục vụ du lịch được nâng lên; sản phẩm du lịch ngày càng đa
dạng, phong phú hơn.
Tỉnh đã có 255 cơ sở lưu trú đã được thẩm định xếp hạng với 9.265
phòng, trong đó có: 4 khách sạn 5 sao với 1.463 phòng, 15 khách sạn 4 sao
với 1.807 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.395 phòng, 45 khách sạn 2 sao với
2.066 phòng, 73 khách sạn 1 sao với 1.811 phòng, 3 căn hộ, biệt thự cao cấp
187
với 95 phòng và 96 nhà nghỉ đạt chuẩn với 1.287 phòng; hằng năm, tỉnh đón
khoảng 15 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế khoảng 500 ngàn lượt.
Tuy nhiên, so với tiềm năng về du lịch của tỉnh, sự phát triển của ngành
Du lịch tỉnh là trong thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa
tương xứng; sản phẩm du lịch của tỉnh chưa phong phú, đa dạng, chưa có
nhiều cơ sở du lịch có đẳng cấp quốc tế, chưa có khu vui chơi giải trí có thể
giữ khách lưu trú dài ngày; số lượt khách đến tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhiều
lần ít, du khách đến đông nhưng chủ yếu là khách đi về trong ngày, chi tiêu
bình quân thấp.
NCS: Thưa ông, Nghị quyết số 05/NQ-TV ngày 27/5 về phát triển
kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm hình đến năm
2015 xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Vậy tỉnh có những giải
pháp gì để tập trung đầu tư cho du lịch?
TS Trần Văn Khánh: Việc xác định du lịch là ngành kinh tế mũi
nhọn, trước hết tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều tiềm năng, lợi thế về phát
triển du lịch rất đa dạng, kêu gọi các thương hiệu du lịch đẳng cấp quốc tế đầu
tư các sản phẩm du lịch phong phú, cao cấp tại tỉnh, có như vậy mới thu hút
được dòng khách cao cấp; huy động các nguồn lực để phát triển Côn Đảo
thành Khu du lịch quốc gia giữ đậm phẩm chất hoang sơ nhưng chất lượng
cao, đặc sắc tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Thứ hai, tập trung đào tạo nguồn nhân lực có tính chuyên nghiệp cao để
phục vụ cho công tác du lịch, đồng thời đề nghị tỉnh chỉ đạo Trường Đại học
Bà Rịa kết hợp với trường Cao đẳng nghề Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu để đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực làm việc tại các cơ sở kinh doanh du lịch chất
lượng cao, nhà hàng, khách sạn và du lịch lữ hành trên địa bàn.
Thứ ba, quyết liệt hơn nữa trong công tác bảo đảm vệ sinh môi trường cho
không gian phát triển du lịch, đặc biệt là các bãi tắm, chỉ đạo các sở, ngành, địa
188
phương liên quan rà soát, chấn chỉnh các nhà vệ sinh, cơ sở kinh doanh du lịch,
bến xe, ở các khu vực công cộng để phục vụ cho các du khách đến tỉnh.
Thứ tư, triển khai các biện pháp để bảo đảm tuyệt đối về an ninh trật tự,
an toàn cho du khách; bảo đảm an ninh du lịch trên địa bàn tỉnh. Phải làm sao
cho du khách luôn yên tâm về vấn đề an ninh trật tự, an toàn khi đến Bà Rịa -
Vũng Tàu.
Thứ năm, tỉnh sẽ hỗ trợ, đôn đốc những dự án du lịch đang triển khai
theo đúng tiến độ và kiên quyết thu hồi các dự án chậm triển khai nguyên
nhân do lỗi của nhà đầu tư; tiếp tục nghiên cứu, phát triển các sản phẩm du
lịch mới, lạ, mang đặc trưng của tỉnh để đáp ứng nhu cầu của du khách.
Thứ sáu, xác định dịch vụ du lịch và du lịch là thế mạnh của tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, do đó vấn đề phải giáo dục tác phong văn minh, lịch sự, thân thiện
của dân cư phục vụ du lịch để làm vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi.
NCS: Thưa ông, nhiều ý kiến cho rằng du lịch Bà Rịa-Vũng Tàu
chưa thực sự xây dựng được thương hiệu cho riêng mình, ông suy nghĩ gì?
TS Trần Văn Khánh, qua các giai đoạn (1991 - 2015), Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh đều có nghị quyết về phát triển du lịch. Từ năm 2006,
tỉnh đã tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hoá - thể thao - du lịch tầm cỡ
quốc tế, quốc gia và khu vực, thu hút đông đảo du khách và nhân dân như:
Khai hội văn hoá - du lịch, Giải bóng chuyền nữ bãi biển quốc tế, Liên hoan
diều quốc tế… trở thành những sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh. Nhiều
khu du lịch và đơn vị kinh doanh du lịch cũng xây dựng được thương hiệu du
lịch riêng như: Khách sạn Imperial, khu du lịch Biển Đông, Long Hải Beach
resort, Sixsenses Resort Côn Đảo, Anoasis Beach resort, Hồ Tràm Strip, Sài
Gòn - Bình Châu… đóng góp cho thương hiệu du lịch của tỉnh.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận thực tế là công tác quảng bá du lịch
chưa theo kịp tốc độ và nhu cầu phát triển; nhiều đơn vị và doanh nghiệp du
189
lịch chưa tích cực tham gia chương trình quảng bá chung cũng như chưa chú
trọng việc giới thiệu doanh nghiệp mình.
NCS: Thưa ông các sản phẩm du lịch mới, lạ và nhiều loại hình du
lịch hấp dẫn nào sẽ được đầu tư như thế nào?
TS Trần Văn Khánh: Tỉnh quan tâm phát triển các loại hình dịch vụ,
vui chơi giải trí đa dạng cao cấp để thu hút, giữ được khách lưu trú dài ngày;
đồng thời, nghiên cứu, kết hợp giữa việc phát triển của các ngành tạo ra sự
phát triển kinh tế - xã hội đồng thời phục vụ cho du lịch như: thể thao kết hợp
du lịch, phát triển các mô hình làng nghề, mô hình nông nghiệp sạch, ứng
dụng công nghệ cao với phục vụ cho du khách tham quan.... tỉnh sẽ tiếp tục
củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, nhân sự quản lý nhà nước
về du lịch từ tỉnh đến cơ sở; tuyên truyền cho người dân, các cơ sở du lịch
hiểu về các chủ trương, chính sách của tỉnh trong việc phát triển du lịch để tạo
sự đồng thuận nhân dân, chung sức, chung lòng tham gia phát triển du lịch
phong phú trong quá trình thực hiện.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
190
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn: Tiến sĩ Phạm Ngọc Hải
Chức vụ: Chủ tịch Hiệp hội du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Thời gian phỏng: Ngày 20 tháng 8 năm 2017.
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Nghiên cứu sinh (NCS): Thưa ông, các chủ trương, chính sách của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có thuận lợi và khuyến khích về phát triển kinh tế
du lịch không?
Tiến sĩ Phạm Ngọc Hải: Trong thời gian qua, được sự quan tâm của
lãnh đạo tỉnh cùng các Sở, ban ngành đã tạo lập môi trường đầu tư, kinh
doanh thuận lợi để các doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động sản xuất kinh
doanh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã xác định phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với sự nổ lực quyết liệt với mục tiêu đẩy
mạnh phát triển ngành du lịch của tỉnh, Sở du lịch tỉnh đã không ngừng
tạo điều kiện và phối hợp nhịp nhàng cùng Hiệp hội thực hiện một số
chương trình, hoạt động cùng thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển kinh
doanh du lịch; tham mưu UBND tỉnh xây dựng và triển khai Kế hoạch
thực hiện Bộ quy tắc ứng xử văn minh du lịch trên địa bàn tỉnh, Đề án bảo
vệ môi trường du lịch, kế hoạch phát triển sản phẩm du lịch, tổ chức các
chương trình lễ hội, sự kiện năm.
Hiệp hội luôn thực hiện vai trò làm cầu nối giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp, liên kết vùng, miền tạo điều kiện cho ngành du lịch tỉnh nhà ngày một
phát triển. Hiệp hội đã tổ chức Đoàn công tác xúc tiến du lịch với các tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long là thị trường tiềm năng nhằm quảng bá, tìm hiểu
cơ hội hợp tác, liên kết phát triển thị trường du lịch của Bà Rịa - Vũng Tàu và
các tỉnh bạn, đã nhận được sự đón nhận hưởng ứng nồng nhiệt và đồng thuận
rất cao từ phía các tỉnh bạn.
191
NCS: Thưa ông, theo số liệu báo cáo, khách du lịch đến Bà Rịa –
Vũng Tàu rất đông, hơn 15 triệu người mỗi năm nhưng chi tiêu rất ít
và lưu trú ngắn ngày, nguyên nhân?
Tiến sĩ Phạm Ngọc Hải: Những năm qua, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã
có nhiều nỗ lực trong phát triển ngành du lịch, những công trình, dự án hiện
đại đã hoàn thành đưa vào hoạt động với các sản phẩm đa dạng và có tính đặc
thù phù hợp với thị trường du lịch quốc tế như: The Imperial, Sixsences
resort, The Grand - Hồ Tràm strip…
Tuy nhiên, về cơ bản thì ngành du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng thế mạnh hiện có so với các tỉnh, thành khác như Nha
Trang, Đà Đẵng, Phú Quốc - Kiên Giang. Nguyên nhân là do tỉnh còn thiếu
những địa điểm du lịch, khu vui chơi giải trí mang tầm cỡ khu vực và quốc tế
không có, chưa có sản phẩm du lịch đặc thù độc đáo nên không thể giữ chân
khách lưu lại. Tính chuyên nghiệp khi xây dựng sản phẩm du lịch, xúc tiến
quảng bá cũng chưa được nâng cao. Sản phẩm du lịch của tỉnh còn đơn điệu,
thiếu đặc sắc, ít sáng tạo. Công tác xúc tiến, quảng bá còn nhiều hạn chế, chỉ
dừng lại ở quảng bá hình ảnh chung, chưa tạo được tiếng vang và sức hấp dẫn.
NCS: Thưa ông, khó khăn nhất của tỉnh là làm sao để thu hút du
khách đến, lưu trú dài ngày ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Là một doanh nghiệp
kinh doanh du lịch, ông cho biết cần phải làm gì để giải quyết vấn đề khó
khăn này?
Tiến sĩ Phạm Ngọc Hải: Lâu nay sản phẩm du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu chủ yếu dựa vào các yếu tố tự nhiên, chưa được đầu tư đúng mức và chưa
khai thác được tiềm năng; có nhiều loại hình du lịch nhưng sản phẩm còn đơn
điệu, không hấp dẫn khách. Từ đó việc thu hút khách du lịch đến tham quan
và lưu trú dài ngày tại Bà Rịa - Vũng Tàu rất ít. Thời gian tới nhất thiết lãnh
đạo tỉnh cần thực hiện tốt các giải pháp:
192
Thứ nhất, công tác xúc tiến, quảng bá sản phẩm du lịch. Tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp khai thác, phát triển và nâng cao chất lượng của các
loại hình sản phẩm du lịch.
Thứ hai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài
nước xây dựng nhiều loại sản phẩm du lịch đặc trưng như: du lịch nghỉ
dưỡng, vui chơi giải trí gắn liền với biển.
Thứ ba, các doanh nghiệp du lịch cần liên kết với nhau, tận dụng từng
thế mạnh của doanh để xây dựng tour, tuyến và tăng sự đa dạng của sản phẩm
du lịch nhằm giữ chân khách lưu trú dài ngày.
NCS: Thưa ông, các sản phẩm du lịch và loại hình nào phát triển phù
hợp tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu?
Tiến sĩ Phạm Ngọc Hải: Để nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm du
lịch, ngành du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu cần tạo sự đột phá về sản phẩm du lịch biển
dựa trên các khu du lịch tổng hợp mang tầm quốc tế, tạo sự khác biệt và đẳng cấp
với các khu du lịch trong khu vực. Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu phải tạo dựng
thương hiệu cho điểm đến và sản phẩm từ chính lợi thế này như:
Cần tập trung kêu gọi đầu tư xây dựng các dự án khu du lịch đẳng cấp
quốc tế tại khu vực ven biển các huyện Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Côn
Đảo với.
Khai thác tiềm năng tài nguyên khu du lịch quốc gia Côn Đảo để xây
dựng sản phẩm du lịch gắn liền với tài nguyên hệ sinh thái biển như: du lịch
nghỉ dưỡng, du lịch thám hiểm, sinh thái, các dịch vụ cảm giác mạnh, triển
khai và xây dựng loại hình du lịch Homestay. Do đó, tỉnh cần đẩy mạnh công
tác xúc tiến quảng bá đối với thị trường tiềm năng này, đồng thời chú trọng
nâng cao chất lượng hoạt động và số lượng đội ngũ hướng dẫn viên trong
ngành du lịch.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
193
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn ông: Nguyễn Văn Sơn
Chức vụ: Phó Giám đốc sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch (Phụ trách du lịch)
Thời gian công tác: (1993 - 2015)
Thời gian phỏng vấn: Ngày 25/8/2017
Địa điểm phỏng vấn: tại nhà số 117/13 Huyền Trân Công Chúa, phường 8,
thành phố Vũng Tàu.
Nghiên cứu sinh (NCS): Thưa ông các chủ trương, chính sách của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có thuận lợi và khuyến khích về phát triển kinh tế
du lịch không?
Ông Nguyễn Văn Sơn: Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều tiềm năng để phát
triển du lịch như: bờ biển dài, khí hậu ôn hòa, địa hình núi rừng, nhiều di tích
lịch sử. Tuy nhiên, thời điểm năm 1991, cơ sở hạ tầng du lịch rất thiếu thốn; sản
phẩm du lịch nghèo nàn, hầu như chỉ có tắm biển, doanh thu du lịch đạt thấp.
Từ năm 1998, Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển du
lịch, việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh đến năm 2010.
Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt, nhờ đó, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
đã khá đồng bộ và hiện đại. Chất lượng nhân lực phục vụ du lịch được nâng
lên; sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Năm 2008, Tỉnh uỷ
tiếp tục ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27/5/2008 về phát triển kinh
tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm nhìn 2015. Những
Nghị quyết này là cơ sở pháp lý rất thuận lợi cho sự phát triển du lịch của tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nói
riêng. Doanh thu du lịch tăng bình quân hơn 10%/năm, lượng khách nội địa
tăng bình quân khoảng 7%/năm, khách quốc tế khoảng 9%/năm.
NCS: Thưa ông, nhiều ý kiến cho rằng du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu
chưa thực sự xây dựng được thương hiệu riêng cho mình, ông suy nghĩ gì?
Ông Nguyễn Văn Sơn: Trước ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước (1975), Vũng Tàu đã được biết là một điểm du lịch tắm
194
biển nổi tiếng. Từ khi thành lập tỉnh đến nay, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh cũng đã
chỉ đạo đã tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hoá - thể thao - du lịch tầm
cỡ quốc tế, quốc gia và khu vực, thu hút đông đảo du khách và nhân dân.
Trong đó, những sự kiện mang tính thường niên như: Khai hội văn hoá - du
lịch, Giải bóng chuyền nữ bãi biển quốc tế, Liên hoan diều quốc tế… trở
thành những sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh. Nhiều khu du lịch và doanh
nghiệp kinh doanh du lịch cũng xây dựng được thương hiệu du lịch riêng như:
Khách sạn Imperial, Long Hải Beach resort, Sixsenses Resort Côn Đảo,
Anoasis Beach resort, Hồ Tràm Strip, Xuyên Mộc, Sài Gòn - Bình Châu, Khu
du lịch Hồ Mây, Vũng Tàu… đóng góp cho thương hiệu du lịch của tỉnh.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận thực tế là công tác quảng bá du lịch
chưa theo kịp tốc độ và nhu cầu phát triển, nhiều đơn vị và doanh nghiệp du
lịch chưa tích cực tham gia chương trình quảng bá chung cũng như chưa chú
trọng việc giới thiệu doanh nghiệp mình, chưa tạo ra sản phẩm phong phú,
mới lạ để níu chân du khách.
NCS: Thưa ông, theo số liệu báo cáo, khách du lịch đến Bà Rịa -
Vùng Tàu rất đông, hơn 15 triệu người mỗi năm nhưng chi tiêu rất ít và
lưu trú ngắn ngày, nguyên do vì sao?
Ông Nguyễn Văn Sơn: Đa phần trong số đó là khách đến từ các địa
phương lân cận và đi về trong ngày, mức chi tiêu rất thấp. Một số lượng
khách không nhỏ khách mang theo đồ ăn thức uống và ngủ ngay tại bờ biển,
tiết kiệm tối đa mức chi phí cho những ngày đi nghỉ tại Bà Rịa - Vũng Tàu,
đây là số khách du lịch đến từ các địa phương lân cận như các tỉnh, thành phố
ở Đông Nam bộ và Tây Nam bộ.
Giao thông thuận lợi, đường cao tốc Long Thành - Dầu Giây đã rút
ngắn tối đa khoảng cách thời gian từ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
miền Đông Nam bộ tới Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhiều du khách đến thì cũng chỉ
nghỉ lại 1 đến 2 đêm chứ không lưu trú dài ngày là do các khu du lịch, resort
195
trên địa bàn tỉnh này thiếu hẳn các dịch vụ phụ trợ, sản phẩm du lịch quá
nghèo nàn. Ngoài tắm biển, ăn vài món hải sản, tham quan một số di tích,
chùa chiền, khách không tìm đâu ra những điểm vui chơi, giải trí.
NCS: Thưa ông, khó khăn nhất của tỉnh là làm sao để thu hút du
khách đến, lưu trú dài ngày ở Bà Rịa - Vũng Tàu, ông cho biết cần phải
làm gì để giải quyết vấn đề khó khăn này?
Bà Rịa - Vũng Tàu phải có quy hoạch và đầu tư bài bản, có chiến lược
marketing với tầm nhìn mang tính chiến lược. Bản thân các doanh nghiệp
phải có phong cách hoạt động chuyên nghiệp chứ không thể cứ áp dụng mãi
lối tư duy "tiểu nông" trong kinh doanh du lịch như hiện nay. Khách quốc tế
không chỉ mang lại doanh thu cho ngành du lịch mà còn mang đến cơ hội giao
lưu, giao thoa văn hóa và văn minh thế giới, đồng thời mở ra những cơ hội
hợp tác đầu tư quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Để có thể đạt được mục tiêu trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngành du lịch Bà Rịa-Vũng Tàu rất cần tìm
được hướng đi thích hợp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng
phục vụ, xây dựng được một hệ thống dịch vụ phong phú, hấp dẫn tạo dựng
được thương hiệu mạnh, chuyên nghiệp, đẳng cấp, đủ sức thu hút nguồn
khách du lịch chất lượng cao, nhất là khách du lịch quốc tế.
Để thực sự trở thành một thương hiệu du lịch đẳng cấp, ngoài thế
mạnh là biển, nghỉ dưỡng cuối tuần thì cần có thêm rất nhiều những sản
phẩm, những dịch vụ mới, hấp dẫn để thu hút du khách. Chất lượng phục vụ
phải ổn định, luôn đổi mới và nâng cao, đặc biệt cần phải gia tăng các dịch vụ
tiện ích phục vụ khách như hồ bơi, các trò chơi và hoạt động thể thao, tổ chức
sự kiện trên bãi biển v.v…. Trước mắt, cần phải xây dựng cho được một môi
trường kinh doanh du lịch "sạch", lành mạnh, đảm bảo chất lượng và giá cả
được niêm yết công khai.
Xin cảm ơn ông!
196
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn ông: Trần Văn Trƣờng
Chức vụ: Giám đốc Ban quản lý các khu du lịch Vũng Tàu
Thời gian phỏng vấn: Ngày 16 tháng 9 năm 2017
Địa điểm phỏng vấn: Số 01 Phó Đức Chính, thành phố Vũng Tàu
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Nghiên cứu sinh (NCS): Thưa ông, chủ trương, chính sách của tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu tác động đối với phát triển kinh tế du lịch tại Vũng Tàu
như thế nào?
Ông Trần Văn Trƣờng: Thành phố Vũng Tàu xác định kinh tế du lịch
là trọng tâm, đúng tinh thần Đại hội Đảng bộ tỉnh và Đại hội Đảng bộ thành
phố Vũng Tàu đề ra. Thành phố Vũng Tàu tập trung về du lịch, an ninh trận
tự, vệ sinh môi trường và nâng cao chất lượng phục vụ tại Bãi Sau. Cả hệ
thống chính trị thành phố Vũng Tàu vào cuộc, uy tín đã được nâng lên. Bước
đầu đã mang lại sự nhận thức cao của người dân và du khách trong việc đồng
tình ủng hộ chủ trương của thành phố Vũng Tàu và xây dựng một thành phố
xanh - sạch - đẹp.
NCS: Thưa ông, theo số liệu báo cáo, khách du lịch đến Vùng Tàu rất
đông, nhưng chi tiêu rất ít và lưu trú ngắn ngày, nguyên do vì sao?
Ông Trần Văn Trƣờng: Thành phố Vũng Tàu gần Thành phố Hồ Chí
Minh và miền Đông Nam bộ, giao thông thuận lợi nên phần lớn khách đến
Vũng Tàu trong ngày rồi về. Sản phẩm du lịch đơn điệu, chưa phong phú nên
chưa giữa được khách du lịch nghỉ lại qua đêm, giả trí.
NCS: Thưa ông, khó khăn nhất là làm sao thu hút du khách đến, lưu trú
dài ngày ở Vũng Tàu, ông cho biết để giải quyết vấn đề khó khăn này?
Ông Trần Văn Trƣờng: Thành phố Vũng Tàu cần phải tạo ra sản phẩm
tốt, quy hoạch khu du lịch cao cấp khép kín. Kêu gọi nhà đầu tư khu vui chơi,
197
giải trí tầm cỡ khu vực và quốc tế, xây dựng khu ẩm thực chợ đêm, và nhiều khu
vui chơi giải trí, thì mới níu chân được du khách đến lưu trú dài ngày được.
NCS: Thưa ông, nhiều ý kiến cho rằng du lịch Vũng Tàu chưa thực
sự xây dựng được sản phẩm, thương hiệu cho riêng mình, ông suy nghĩ gì?
Ông Trần Văn Trƣờng: Đúng như vậy. Du lịch Vũng Tàu thiếu tầm
nhìn vĩ mô. Nhưng những năm gần đây nhiều chủ trương trương, chính sách
về phát triển kinh tế du lịch, đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh
du lịch, bước đầu đã mang lại hiệu quả và khẳng định thương hiệu của mình
và tương tương du lịch Vũng Tàu sẽ mang lại diện mạo mới.
Xin trận trọng cảm ơn ông!
198
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn ông: Nguyễn Hữu Tâm
Chức vụ: Giám đốc Ban quản lý các khu du lịch huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu
Ngày phỏng vấn: Ngày 22/9/2017.
Địa điểm phỏng vấn: Thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ.
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Nghiên cứu sinh (NCS): Thưa ông chủ trương, sách sách của tỉnh có tác
động lớn đối với phát triển kinh tế du lịch tại huyện Đất Đỏ như thế nào?
Ông Nguyễn Hữu Tâm: Phát triển du lịch được đưa vào nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện, đây được xem là thế mạnh để huyện Đất Đỏ phát triển về đô thị
du lịch. Huyện Đất Đỏ đã triển khai nhiều giải pháp để phát triển du lịch, trong đó
chú trọng đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của xã hội về
du lịch; xây dựng quy hoạch, cơ chế chính sách phù hợp khuyến khích sự tham
gia của đông đảo người dân; đầu tư phát triển nguồn nhân lực đảm bảo phục vụ tốt
cho việc phát triển du lịch tại địa phương; kêu gọi và huy động vốn từ nhiều
nguồn khác nhau; quan tâm đầu tư tôn tạo các di tích trên địa bàn huyện.
Công tác quản lý các hoạt động du lịch trên địa bàn huyện luôn được huyện
quan tâm, thường xuyên chỉ đạo các ngành chức năng có kế hoạch kiểm tra hoạt
động kinh doanh của các cơ sở, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, đảm bảo
cho du khách vui chơi, tắm biển an toàn, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng du khách.
NCS: Thưa ông, vấn đề khó khăn quản lý nhà nước về phát triển kinh
tế du lịch huyện Đất Đỏ là gì?
Ông Nguyễn Hữu Tâm: Du lịch huyện Đất Đỏ chưa phát huy hết tiềm
năng sẵn có, vẫn còn những tồn tại như hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở lưu
trú và dịch vụ du lịch mang tính nhỏ lẻ, sản phẩm du lịch chưa phong phú, đơn
điệu; nguồn nhân lực đối với yêu cầu của hoạt động du lịch có nhiều tiến bộ
199
nhưng vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng; tổ chức các hoạt động chưa liên kết giữa
các doanh nghiệp vào các dịp lễ, tết, nên lượng du khách đến tham quan, nghỉ
dưỡng dài ngày chưa nhiều; tiến độ triển khai của một số dự án còn chậm và các
nhà đầu tư chưa đủ năng lực tài chính.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp không quyết tâm đầu tư, sau khi có quyết
định giao đất chỉ tiến hành xây hàng rào, điều chỉnh quy hoạch chi tiết nhằm kéo
dài thời gian thực hiện.
NCS: Thưa ông, làm sao để thu hút du khách đến lưu trú dài ngày tại
Đất Đỏ, theo ông để giải quyết vấn đề khó khăn này?
Ông Nguyễn Hữu Tâm: Để giải quyết vấn đề này, cần giải quyết một
số vấn đề sau:
- Xây dựng nhiều mô hình phục vụ du lịch đa dạng, sản phẩm du lịch
phong phú hơn; tổ chức các hoạt động kinh doanh mang tính lâu dài và bền
vững, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần liên kết. Tìm các doanh nghiệp
tâm huyết với ngành du lịch kêu gọi đầu tư các công trình phục vụ vui chơi,
giải trí, các khu ẩm thực vùng, miền, đẩy nhanh tiến độ triển khai của một số
dự án còn chậm, triển khai cầm chừng.
- Phát triển loại hình du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng với hệ thống các khu
du lịch dọc tuyến đường ven biển từ thị trấn Phước Hải đến xã Lộc An; trùng
tu, tôn tạo và phát triển khu di tích lịch sử căn cứ Minh Đạm gắn với các hoạt
động tham quan về nguồn kết hợp hoạt động thể thao leo núi, dã ngoại..v.v.
NCS: Thưa ông, nhiều ý kiến cho rằng du lịch Đất Đỏ chưa thực sự
xây dựng được sản phẩm, thương hiệu cho riêng mình, ông suy nghĩ gì?
Ông Nguyễn Hữu Tâm: Xây dựng thương hiệu điểm đến là một yêu cầu
đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển du lịch để có sản phẩm du lịch độc
đáo, hấp dẫn du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng. Để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của du khách, căn cứ vào tiềm năng, tài nguyên du lịch và các điều kiện
liên quan, sản phẩm hiện có của huyện bao gồm các loại hình du lịch như: du lịch
200
tham quan - nghỉ dưỡng (khu du lịch Tropicana beach Resort & Spa, khu du lịch
và khách sạn Thùy Dương, Khu du lịch sinh thái Lộc An…), du lịch lễ hội (Lễ hội
Nghinh ông Nam Hải, lễ hội khai hội văn hóa du lịch), du lịch văn hóa - lịch sử
gắn với làng nghề; tham quan, nghiên cứu các giá trị văn hóa Đất Đỏ hướng về
vùng đất quê hương anh hùng Liệt sỹ Võ Thị Sáu.
Huyện Đất Đỏ đang chú trọng đến một số vấn đề nhằm phát triển du lịch
như: chiến lược quảng bá thương hiệu du lịch Đất Đỏ, đầu tư cơ sở hạ tầng, bình
chọn sản phẩm thành thương hiệu đưa vào kinh doanh du lịch. Đối với du khách
quốc tế thích khám phá, trải nghiệm thực tế cần tạo cảnh quan hấp dẫn, mang đậm
nét vùng biển, xây dựng hình ảnh chợ du lịch tại thị trấn Phước Hải, giúp du
khách trải nghiệm, mua sắm, tạo nét mới trong hoạt động du lịch. Đối với du
khách nội địa, mô hình phù hợp là tổ chức dã ngoại, thể thao và giao lưu tập thể,
tạo môi trường du lịch sinh động, hấp dẫn, hướng dẫn tham quan một số di tích
văn hóa - lịch sử mang đậm truyền thống cách mạng, nhằm giáo dục, khơi dậy
lòng yêu nước, tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó nhau.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế, phát triển sản phẩm du lịch là một
trong những vấn đề mấu chốt nhằm tăng sức cạnh tranh đối với những sản
phẩm du lịch vùng, các tỉnh khác lân cận cũng như bổ trợ cho những sản
phẩm du lịch đặc trưng. Theo đó, huyện Đất Đỏ sẽ tạo ra những hình ảnh
riêng, ấn tượng tạo điểm nhấn đặc biệt cho du khách.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
201
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn ông: Nguyễn Văn Sơn
Chức vụ: Giám đốc Ban quản lý các khu du lịch huyện Long Điền, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu
Thời gian phỏng vấn: Ngày 28 tháng 9 năm 2017
Địa điểm: Thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
NCS: Thưa ông, chủ trương, sách sách của tỉnh tác động lớn đối với
phát triển kinh tế du lịch tại huyện Long Điền như thế nào?
Ông Nguyễn Văn Sơn: Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh về việc
phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh đã có tác động đến du lịch huyện Long
Điền cụ thể như định hướng phát triển du lịch dọc tuyến biển, du lịch sinh
thái, tâm linh (Dinh Cô)…và cải tạo xây dựng khu ẩm thực tại Dinh Cô thị
trấn Long Hải.
NCS: Thưa ông, khó khăn quản lý nhà nước về du lịch huyện Long
Điền là gì?
Ông Nguyễn Văn Sơn: Khó khăn về quản lý nhà nước về du lịch huyện
Long Điền là Khu vực biển chưa sắp xếp quy hoạch được khu buôn bán hàng
rong, Ban quản lý các Khu du lịch không có chức năng chế tài chỉ nhắc nhở là
chính từ đó việc buôn bán hàng rong vẫn còn tiếp diễn.
NCS: Thưa ông, nhiều ý kiến cho rằng du lịch Long Điền chưa thực
sự xây dựng được sản phẩm, thương hiệu cho riêng mình, ông suy nghĩ gì?
Ông Nguyễn Văn Sơn: Du lịch huyện Long Điền đã xây dựng được
sản phẩm du lịch như: bánh hỏi An Nhứt, bánh tráng An Nhứt…Tuy có
nhưng không nhiều chưa đáp ứng được nhu cầu du lịch của du khách khi đến
du lịch tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
202
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn ông: Lâm Quang Dũng
Chức vụ: Giám đốc Ban quản lý các khu du lịch huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu
Thời gian phỏng vấn: Ngày 07 tháng 01 năm 2018
Địa điểm: Xã Bƣng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Nghiên cứu sinh (NCS): Thưa ông, chủ trương, sách sách của tỉnh tác
động lớn đối với phát triển kinh tế du lịch tại huyện Xuyên Mộc như thế nào?
Ông Lâm Quang Dũng: Huyện Xuyên Mộc có chiều dài bờ biển 32
km và đặc biệt là một vùng hiếm có về mặt sinh thái, với 11.000 ha rừng
nguyên sinh. Đây là một lợi thế không nhỏ để phát triển kinh tế du lịch. Tuy
nhiên, trước năm 2000 thì tiềm năng này hầu như bỏ ngõ, cho đến khi UBND
tỉnh có Quyết định số 3748/2000/QĐ-UB ngày 01/8/2000 phê duyệt quy
hoạch chi tiết khu du lịch và dân cư ven biển Hồ Tràm thì các dự án đầu tư du
lịch trên địa bàn huyện mới có sự khởi động.
Từ những chủ trương, chính sách của tỉnh thì kinh tế du lịch của huyện
Xuyên Mộc khởi sắc hẳn lên. Trên địa bàn huyện có 102 dự án du lịch (trong
đó có 04 dự án FDI) với tổng vốn đăng ký 19.297 tỷ VND và 4,234 tỷ USD.
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch tăng đều qua hàng năm
(năm 2015 là 1.020 tỷ, năm 2016 là 1.130 tỷ, năm 2017 là 1.360 tỷ) góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Xuyên Mộc (ngành thương mại dịch vụ
- du lịch của huyện đứng thứ 2.
NCS: Thưa ông, khó khăn quản lý nhà nước về du lịch huyện Long
Điền là gì?
Ông Lâm Quang Dũng: Khó khăn thứ nhất: Là chính sách để thu hút đầu
tư quy định là mật độ xây dựng trong các dự án từ 15 - 25% trong khi chủ đầu
tư phải nộp 100% tiền của toàn bộ diện tích được giao hoặc cho thuê. Điều
này chưa tạo được sức hút lớn. Về nộp tiền sử dụng đất: đối với đất thuê thì
203
trước đây chủ đầu tư được lựa chọn (hoặc là nộp tiền thuê đất hàng năm hoặc
là nộp tiền thuê đất một lần cho suốt thời gian thuê). Nay, bắt buộc phải nộp
tiền một lần, điều này cũng gây ra khó khăn cho một số chủ đầu tư.
- Khó khăn thứ hai là thủ tục đầu tư: Các dự án đầu tư trong đất rừng
(không được giao hoặc cho thuê đất mà phải thuê môi trường rừng) Sau khi
có chủ trương đầu tư, có giới thiệu và thỏa thuận địa điểm, được phê duyệt
quy hoạch 1/2000 thì lại không được cấp giấy phép xây dựng (do không phải
chủ sở hữu đất). Điều này gây cản trở đầu tư. (huyện Xuyên Mộc có 26 dự án
thuộc dạng này đang đắp chiếu).
NCS: Thưa ông, khó khăn nhất là làm sao để thu hút du khách lưu
trú dài ngày tại Xuyên Mộc, theo ông để giải quyết vấn đề khó khăn này?.
Ông Lâm Quang Dũng: Để thu hút du khách đến và lưu trú dài ngày
tại địa phương cần giải quyết một số vấn đề sau:
Thực trạng hiện khách đi du lịch cũng như kinh doanh du lịch là theo
mùa vụ. Lượng khách du lịch thường tập trung vào các dịp lễ, tết, hè... mà chủ
yếu du khách đến Xuyên Mộc cũng chỉ để vui chơi, tắm biển là chính. Huyện
Xuyên Mộc chưa có các dịch vụ đa dạng để níu chân du khách lưu trú dài
ngày. Có một câu nói ví von rằng đến đây có chỗ tắm, có chỗ ăn, chỗ ngủ
nhưng chưa có chỗ để chơi và mua sắm. Do đó, để có thể từng bước thu hút
du khách đến du lịch và lưu trú dài ngày tại địa phương thì cần có sự đồng
hành tương tác giữa nhà nước và doanh nghiệp làm du lịch.
Đối vơi doanh nghiệp: cần xây dựng chiến lược giá vào mùa thấp điểm
để thu hút du khách, đồng thời tạo ra nhiều sản phẩm phong phú và đa dạng.
Đối với nhà nước: Tạo ra môi trường du lịch xanh, sạch, an toàn, văn
minh. Khuyến khích tạo nhiều loại hình hoạt động đa dạng như: tổ chức chợ
đêm; tổ chức thêm nhiều lễ hội; liên kết tổ chức các sự kiện; tu sửa các di tích
lịch sử, văn hóa...Kết nối đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trong và
ngoài các khu du lịch (giao thông, điện nước, xử lý chất thải...).
Xin trân trọng cảm ơn ông!
204
PHIẾU PHỎNG VẤN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Phỏng vấn ông: Nguyễn Xuân Dũng
Chức vụ: Trưởng ban Quản lý Khu du lịch quốc gia Côn Đảo
Thời gian phỏng vấn: Ngày 02 tháng 12 năm 2017
Địa điểm phỏng vấn: Số 03 Nguyễn Huệ, huyện Côn Đảo.
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Nghiên cứu sinh (NCS): Thưa ông, các chủ trương, chính sách của
Trung ương, của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tác động lớn đối với phát triển
kinh tế du lịch tại Côn Đảo như thế nào?
Ông Nguyễn Xuân Dũng: Thời gian qua, Trung ương, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đã ban hành nhiều chính sách có động động lớn đối với phát triển
du lịch của huyện như: Quyết định 264/2005/QĐ-TTg ngày 25/10/2005 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển kinh tế - xã hội huyện Côn
Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2020…Chủ trương, chính sách của
Trung ương, của tỉnh hết sức quan trọng đến phát triển kinh tế - xã hội của
huyện Côn Đảo, làm tiền đề cơ sở, định hướng cho sự đầu tư và phát triển,
đặc biệt là phát triển du lịch huyện Côn Đảo.
Xác định phát triển du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn Khu du lịch quốc
gia Côn Đảo trở thành khu du lịch sinh thái biển - đảo và văn hóa - lịch sử - tâm
linh chất lượng cao, hiện đại, sản phẩm du lịch có thương hiệu, sức cạnh tranh
cao, mang đậm đặc trưng văn hóa truyền thống gắn liền với phát huy, khai thác
bền vững các giá trị tài nguyên môi trường rừng, biển và các giá trị văn hóa-lịch
sử của Côn Đảo.
NCS: Thưa ông, khó khăn nhất của là làm sao để thu hút du khách lưu
trú dài ngày ở Côn Đảo, ông cho biết để giải quyết vấn đề khó khăn này?
Ông Nguyễn Xuân Dũng: Nhằm để thu hút du khách đến, lưu trú dài
ngày ở Côn Đảo, chính quyền địa phương đang:
205
- Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, giao thông, bến cảng,
điện, nước; bồi dưỡng nguồn nhân lực đảm bảo phục vụ du lịch chuyên
nghiệp; tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch; chất lượng phục vụ.
- Phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng gắn liền với tài nguyên du lịch
của địa phương; thực hiện tôn tạo, phát huy giá trị di tích lịch sử Côn Đảo
phục vụ khách tham quan.
- Phát triển loại hình sản phẩm hoạt động ban đêm, vui chơi giải trí
phục vụ khách du lịch như Phố đi bộ, điểm dừng chân, vọng cảnh, sân khấu
hóa những nhân vật gắn liền với những nhân vật lịch sử, truyền thuyết với
Côn Đảo….
NCS: Thưa ông, nhiều ý kiến cho rằng du lịch Côn Đảo chưa thực
sự xây dựng được sản phẩm, thương hiệu cho riêng mình, ông suy nghĩ gì?
Ông Nguyễn Xuân Dũng: Thực sự Côn Đảo đã có sản phẩm du lịch
đặc trưng của địa phương mà những địa phương khác không có. Đó là: xem
rùa biển đẻ trứng; tìm hiểu di tích lịch sử Côn Đảo trải qua 2 cuộc kháng
chiến, với 113 năm địa ngục trần gian, được công nhận là di tích đặc biệt cấp
quốc gia; lặn biển ngắm san hô, xem thảm thực vật cỏ biển; chạy ca nô dạo
biển xem chim yến làm tổ các hòn đảo nhỏ…
Tuy nhiên, Côn Đảo xác định Khu du lịch quốc gia Côn Đảo trở thành
khu du lịch sinh thái biển - đảo và văn hóa - lịch sử - tâm linh chất lượng cao,
đặc sắc tầm cỡ khu vực. Chính quyền địa phương đang tích cực đề ra nhiều
giải pháp để triển khai thực hiện xây dựng sản phẩm du lịch có thương hiệu,
sức cạnh tranh cao, mang đậm đặc trưng văn hóa truyền thống.
Xin trân trọng cảm ơn ông!