một số điểm mới về quyền con người, quyền và...

30
BÀI DỰ THI: “TÌM HIỂU PHÁP LUẬT NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” Câu 1: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân? Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao? a. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. 1

Upload: others

Post on 02-Jan-2020

26 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

BÀI DỰ THI: “TÌM HIỂU PHÁP LUẬTNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”

Câu 1: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân? Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?

a. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Những điểm mới và tiến bộ vượt bậc của Chương II Hiến pháp năm 2013 trong việc ghi nhận và thực thi các công ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam so với Hiến pháp năm 1992 được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau đây: + Thứ 1. Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên Chương “Quyền và nghĩa vụ công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Qua đặt tên Chương đã cho chúng ta thấy: Hiến pháp năm 1992 chỉ bàn chủ yếu đến quyền công dân, chưa bao quát hết nội dung cần có là quyền con người; Hiến pháp năm 2013 đã khắc phục nhược điểm đó và đã hiến định những yêu cầu cơ bản về bảo đảm quyền con người và quyền công dân, trong đó quyền con người lần đầu tiên được đưa vào tên Chương ở cụm từ đầu tiên trong tên gọi của Chương. + Thứ 2. Hiến pháp năm 2013 đã chuyển Chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân” từ vị trí Chương 5 trong Hiến pháp năm 1992 lên vị trí Chương 2. Việc chuyển  đổi vị trí của Chương cho thấy các nhà lập hiến đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. + Thứ 3. Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân như ở Điều 50 Hiến pháp năm 1992 khi quy định quyền con người “…thể

1

hiện ở quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng cả 2 thuật ngữ “quyền con người” và “quyền công dân” với những nội dung được quy định chủ thể quyền là công dân thì Hiến pháp năm 2013 quy định chủ thể quyền không chỉ là công dân mà quyền của con người, của mọi người, quyền của mỗi người đều có chứ không chỉ công dân. + Thứ 4. Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng quyền con người nêu ở Điều 50, thì Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước là nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền con người. Quy định này được thể hiện trong các Điều 3 và Điều 14 Hiến pháp năm 2013 tương ứng với các quy định về nghĩa vụ quốc gia trong Luật nhân quyền quốc tế. + Thứ 5. Trong Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại khoản 2 Điều 14 mà trong các Hiến pháp trước đây quy định chưa rõ. Việc hiến định nguyên tắc giới hạn quyền ở Điều 14 Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa quan trọng với pháp luật Việt Nam. + Thứ 6. Chương II Hiến pháp năm 2013 đã thực hiện nguyên tắc kế thừa và phát triển trong sửa đổi bổ sung Hiến pháp, củng cố hầu hết các quyền được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 nhưng quy định rõ hơn hoặc được tách thành các điều riêng cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và các quy định trong các điều ước quốc tế về nhân quyền như các quyền: Bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); Cấm tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình (Điều 20 khoản 1); Bảo vệ đời tư và nơi ở (Điều 21, 22); Tiếp cận thông tin (Điều 25); Tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); Bình đẳng giới (Điều 26); Bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân (Điều 29); Tố tụng công bằng (Điều 31); Sở hữu tư nhân (Điều 32); Lao động, việc làm (Điều 35). Các quy định này trong Hiến pháp không chỉ thể hiện rõ hơn khái niệm và nội dung các quyền mà còn nâng cao tính khả thi của những quy định về quyền ngay trong Hiến pháp. + Thứ 7. Chương II Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận một số quyền mới mà Hiến pháp năm 1992 chưa đề cập đến bao gồm: Quyền sống (Điều 19); Các quyền về văn hóa (Điều 41); Quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43); Quyền của công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17 khoản 2); Quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); Quyền hưởng an sinh xã hội (Điều 34)… + Thứ 8. Nội dung về quyền được tố tụng công bằng trong Điều 72 Hiến pháp năm 1992 được mở rộng đáng kể trong Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Trong Hiến pháp năm 1992, quyền được tố tụng công bằng chỉ bao gồm các yếu tố: suy đoán vô tội; bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan sai trong tố tụng; xử lý nghiêm minh người thi hành tố tụng gây oan sai. Trong Hiến pháp năm 2013, ngoài những nội dung đã nêu trên đây còn bao gồm những nội dung khác như: xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần cho cùng một tội phạm; quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa… Việc mở rộng nội dung này phù hợp với yêu cầu thực thi Luật nhân quyền quốc tế và các quy định của các công ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam. + Thứ 9. Chủ thể của quyền sở hữu tư nhân trong Hiến pháp năm 2013 đã được mở rộng từ “công dân” trong Hiến pháp năm 1992 sang “mọi người” trong Điều 32 Hiến

2

pháp năm 2013, nghĩa là không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả mọi người sống trên đất nước Việt Nam đều có quyền về tài sản và nhân thân phi tài sản. + Thứ 10. Lao động và việc làm là một trong những quyền trọng tâm của hệ thống quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Điều 55, 56 Hiến pháp năm 1992 là những quy định dài dòng, mang tính hô hào, “khẩu hiệu” về lao động, việc làm. Chương II Hiến pháp năm 2013 đã thay thế bằng những quy định thực chất hơn, rõ ràng hơn, đặc biệt là bám sát các điều khoản liên quan trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Cụ thể, theo Điều 35 Hiến pháp năm 2013 thì quyền về lao động, việc làm bao gồm: quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. + Thứ 11. Chương II Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung mới rất nhiều quyền dân sự, chính trị theo yêu cầu của Luật nhân quyền quốc tế như: Quyền sống, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị lao động cưỡng bức, quyền không bị tra tấn, đánh đập, xúc phạm nhân phẩm, quyền xác định dân tộc, quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, quyền tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, quyền về môi trường … Có thể nói 36 điều của Chương II Hiến pháp năm 2013 đã bao quát khá đầy đủ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong Bộ luật nhân quyền quốc tế. + Thứ 12. Chương II Hiến pháp năm 2013 khẳng định, quy định rõ hơn và làm sâu sắc hơn quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (Điều 28), biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29). Có thể nói, trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp quan trọng, vì một mặt bảo đảm quyền của Nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, mặt khác bảo đảm cho những quyết định về các vấn đề hệ trọng của đất nước được thông qua một cách dân chủ hơn, cẩn trọng hơn, chính đáng hơn. + Thứ 13. Chương II Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm của nhà nước và sự cam kết của nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 là sự cam kết vững chắc về vai trò của Hiến pháp và pháp luật bảo đảm quyền con người. Điều 24 xác định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều 26 xác định:“Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò…”. Điều 28 xác định: “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội”. Điều 36: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”. Điều 37: “Trẻ em, thanh niên, người cao tuổi được nhà nước chăm sóc, tạo điều kiện, bảo trợ” + Thứ 14. Hiến pháp năm 2013 khắc phục đáng kể cách diễn đạt thể hiện tư tưởng ban phát quyền cho con người, cho công dân bằng cách thay đổi cách diễn đạt và văn phong pháp lý. Nhiều cụm từ “nhà nước bảo đảm”, “nhà nước tạo điều kiện”, “nhà nước khuyến khích”… đã được thay bằng “mọi người có quyền”, “công dân có quyền”… Hiến pháp năm 2013 cũng lược bỏ một khối lượng đáng kể các cụm từ “theo quy định của pháp luật”, “theo quy định của luật”… Điều này thể hiện tư duy tiến bộ trong việc thừa nhận khả năng áp dụng trực tiếp các quy phạm Hiến pháp, đồng thời ghi nhận sự ràng buộc trách nhiệm của nhà nước đối với việc bảo vệ, bảo đảm thực

3

hiện quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm pháp lý này đã được xác định rõ ràng trong Luật nhân quyền quốc tế.

b. Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?

Điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 em thấy tâm đắc nhất một điểm trong Điều 37: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.

Trẻ em không chỉ là lực lượng đông đảo của hiện tại mà là nguồn nhân lực của tương lai. “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hôm nay chính là tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai. Đó không chỉ là nhiệm vụ của riêng các cấp, các ngành nào, mà chính là nhiệm vụ của toàn xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng, Nhà nước và các địa phương xem là chính sách ưu tiên hàng đầu trong việc bảo đảm an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, em nhận thấy xã hội hiện nay cần rung lên hồi chuông cảnh báo về nạn bạo hành trẻ em đang ngày càng gia tăng. Trên cả nước hiện nay, có hơn 26 triệu trẻ em, trong đó có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và gần 2,5 triệu trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặt biệt. Các em nhỏ hay các bạn cùng trang lứa với em đang bị cha mẹ bỏ rơi, nhiều trẻ em từ khi vừa lọt lòng đã không nhận được tình thương yêu từ cha mẹ; trẻ em bị mồ côi hoặc bị chính bố mẹ đẻ hành hung; trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em bị các bà bảo mẫu đối xử tàn nhẫn;...

4

5

Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, vào ngày 20/2/1990. Từ đó đến nay, mặc dù còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công ước vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và luật pháp quốc gia như: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục, Luật lao động, Luật dân sự, Luật tố tụng hình sự... được ban hành hay sửa đổi đều quan tâm thích đáng đến quyền lợi của trẻ em. Các chỉ số cơ bản về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em liên quan đến vấn đề sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục, văn hóa, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, bảo vệ trẻ em cần được quan tâm, thực hiện. Việc hoàn thành và thực hiện tốt các chỉ số cơ bản này là cơ sở để đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Trẻ em có một số các quyền sau:Thứ nhất, quyền được khai sinh và có quốc tịch.Thứ hai, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡngThứ ba, quyền được sống chung với cha mẹThứ tư, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể nhân phẩm và danh dựThứ năm, quyền được chăm sóc sức khỏeThứ sáu, quyền được học tậpThứ bảy, quyền được vui chơi giải trí hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịchThứ tám, quyền được phát triển năng khiếu

Thứ chín, quyền có tài sản

Những năm qua, bên cạnh thành quả đạt được, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và cần có những giải pháp cụ thể để tháo gỡ những khó khăn này. Những thành quả, hạn chế cũng như việc đưa ra các giải pháp được tập trung chủ yếu ở một số nội dung như: hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính

6

sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; tăng cường truyền thông, giáo dục, vận động xã hội; vận động nguồn lực dành cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; công tác kiểm tra, giám sát, xây dựng cơ sở dữ liệu về trẻ em; thực hiện phối hợp liên ngành trong thực hiện quyền trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Bên cạnh hệ thống thể chế, pháp luật đang ngày càng được hoàn thiện, các hoạt động truyền thông, giáo dục và vận động xã hội về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đồng thời mở rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội dành cho trẻ em.

Em cũng như các bạn luôn cần sự quan tâm chăm sóc, dạy bảo của gia đình, của thầy cô giáo và sự quan tâm chăm lo của toàn xã hội. Chúng em có quyền được sống trong tình yêu thương của gia đình và một xã hội hòa bình, được học tập trong những ngôi trường xanh – sạch – đẹp và an toàn, có các điều kiện về cơ sở vật chất tốt để chúng em được rèn luyện, học tập và phát huy năng lực của bản thân. Điểm mới của Hiến pháp năm 2013 (so với Hiến pháp năm 1992) Điều 37: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” đã, đang và sẽ là hành lang pháp lí để bảo vệ chúng em và đảm bảo các quyền lợi cho chúng em – thế hệ “măng non” của đất nước.

7

8

9

Câu 2: Luật giáo dục năm 2005 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009 ) quy định thế nào về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân?

Luật giáo dục năm 2005 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009 ) quy định về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân như sau:

Điều 10. Quyền và nghĩa vụ học tập của công dân

- Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.

- Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.

- Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng.

- Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.

Câu 3: Bạn hãy nêu mục tiêu của giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp được quy định trong Luật Giáo dục năm 2005 ( sửa đổi bổ sung năm 2009)

Mục tiêu của giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp được quy định trong Luật Giáo dục năm 2005 ( sửa đổi bổ sung năm 2009) như sau:

10

Cây nghề nghiệp

- Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.

- Mục tiêu cụ thể đối với từng trình độ của giáo dục nghề nghiệp được quy định như sau:

+ Đào tạo trình độ sơ cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề.

+ Đào tạo trình độ trung cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm.

+ Đào tạo trình độ cao đẳng để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực hiện công việc.

Câu 4: Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 ( sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy định thế nào là chất ma túy, chất gây nghiện, chất hướng thần, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và cây có chứa chất ma túy. Các hành vi nào bị nghiêm cấm để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma túy?

a. Luật Phòng, chống ma túy của Việt Nam tại Điều 2 năm 2000 ( sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy định chất ma túy, chất gây nghiện, chất hướng thần, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và cây có chứa chất ma túy như sau:

+ Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.

11

+ Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng.

+ Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.

12

+ Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành.

Tiền chất ma túy được giấu trong hộp đựng cà phê Trung Nguyên.

+ Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

13

Loại thuốc ho được cho là có thể gây các trạng thái như người nghiện ma túy cho người sử dụng, đặc biệt là trẻ em.

+ Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý do Chính phủ quy định.

* Phân loại : Có nhiều cách để phân loại ma túy, sau đây là ba cách thường được sử dụng: phân loại theo luật pháp, phân loại theo tác dụng và phân loại dựa theo nguồn gốc sản sinh. Phân loại theo luật pháp: Luật pháp chia ma túy làm hai nhóm: hợp pháp và bất hợp pháp.Ma túy hợp pháp: Những loại ma túy hợp pháp thông dụng:

- Rượu, bia - Ni-cô-tin (thuốc lá)- Ca-phê-in

14

- Thuốc bác sĩ cho toa như thuốc ngủ an thần (sedative-hypnotics) gồm có: Ben-zô-đai-a-zê-pin (Benzodiazepines) như Serepax, Valium, Librium...

- Một số dược phẩm trong nhóm amphetamies như: dexamphetamine, methylphenidate, phentermine...

Ghi chú: Tuy nhiên có một vài giới hạn đối với một số thuốc hợp pháp. Những loại này có thể trở thành bất hợp pháp, ví dụ như việc thiếu niên dưới 18 tuổi mua rượu bia hay thuốc lá là bất hợp pháp. Những loại thuốc trị bệnh cũng có thể trở thành bất hợp pháp nếu mua qua bạn bè, chợ đen hay mua không có toa bác sĩ.Ma túy bất hợp pháp: Những loại ma túy được xem là bất hợp pháp gồm có:

- Cần sa (Cannabis)- Bạch phiến (Heroin)- Các loại gây ảo giác (Hallucinogens/Psychedelics): LSD, DMT, Psilocybin,

Psilocin, Mescaline, DOM (STP), Phencyclidine or PCP, Ketamine...- Cô-ken (Cocaine)- Mê-tha-qua-lôn (Methaqualone) và những loại gây nghiện (narcotics) mua

không có toa bác sĩ.- Các loại amphetamine bất hợp pháp như: methamphetamine, crystal

methamphetamine....

Lá cần sa Lá Coca - Cây Ma hoàng

15

b. Các hành vi sau đây bị nghiêm cấm để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma túy:

+ Trồng cây có chứa chất ma tuý.

+ Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán, phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nghiên cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần.

+ Sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý; xúi giục, cưỡng bức, lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma tuý.

+ Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma tuý.

+ Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội về ma tuý mà có.

+ Chống lại hoặc cản trở việc cai nghiện ma tuý.

+ Trả thù hoặc cản trở người có trách nhiệm hoặc người tham gia phòng, chống ma tuý.

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý.

+ Các hành vi trái phép khác về ma tuý.

Câu 5: “ Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội” (Trích khoản 1, Điều 4, Luật Thanh niên năm 2005) Theo bạn, Nhà nước, gia đình và mỗi thanh niên cần làm gì và làm như thế nào để đất nước ta trở nên giàu đẹp? 1. Đối với vai trò của Đảng và Nhà nước cần phải có sự cải cách và hành động cụ thể vì một Việt Nam giàu mạnh và tự chủ, cụ thể như:+ Thứ nhất là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Đồng thời Nhà nước cần xây dựng chiến lược, chính sách phát triển kinh tế phù hợp.+ Thứ hai là: Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.+ Thứ ba là: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đào tạo những con người có tri thức, có đạo đức trong sáng. Cùng với đó là nâng cao đời sống của nhân dân, đặc biệt là khu vực nông thôn và miền núi, quan tâm đến đời sống của đồng bào dân tộc ít người. Dùng luật pháp để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

16

+ Thứ tư là: Đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt quan tâm đến công tác phòng chống các tệ nạn xã hội và bảo vệ chủ quyền biển đảo.+ Thứ năm là: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.+ Thứ sáu là: Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì dân. Cùng với đó là phải củng cố bộ máy nhà nước phù hợp với sự phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.+ Thứ bảy là: Xây dựng Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh; chống quan liêu, tham nhũng. + Thứ tám là: Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Trong quá trình thực hiện các phương hướng trên, Nhà nước cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn như: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng Xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí và nhân dân làm chủ…không mang tính phiến diện, cực đoan, duy ý trí.2. Đối với gia đình

Bác Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội” , vì vậy phát triển kinh tế gia đình sẽ góp phần phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó gia đình còn đóng vai trò quan trọng trong công tác giáo dục thế hệ tương lai của đất nước, cụ thể là:

17

- Phải nuôi dạy và cho con em mình đi học theo đúng quyền trẻ em và quyền công dân. - Phối kết hợp với nhà trường và xã hội để giáo dục con em mình trở thành người có ích cho đất nước. - Phải xây dựng cho con em mình một kế hoạch cụ thể về tương lai và phải định hướng nghề nghiệp phù hợp với con em mình. - Phải là chỗ dựa tốt cả về vật chất lẫn tinh thần để con em mình có điều kiện học tập tốt và học lên cao nhất có thể.3. Đối với thanh niên

Đất nước ta đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử với biết bao thăng trầm, khó khăn,

gian khổ. Biết bao thanh niên anh dũng đã phải đổ xương máu để chiến đấu với kẻ thù, với giặc ngoại xâm, để giờ đây chúng ta - những con người đang sống ở thế kỉ XXI được sống hoà bình, ấm no, hạnh phúc trên chính đất nước Việt Nam - Một quốc gia độc lập, tự do, có chủ quyền. Hơn ai hết, tất cả chúng ta - Những người Việt Nam yêu nước chân chính đều tự hào về điều đó, tự hào mang trong mình dòng máu Việt Nam anh hùng!

Thế nhưng tự hào về lịch sử thôi thì chưa đủ, nếu cứ mãi chìm trong chiến thắng thì đất nước trong tương lai sẽ ra sao? Tất cả chúng ta, thế hệ trẻ của đất nước cần phải làm sao cho đất nước Việt Nam có nhiều điều tự hào hơn nữa. Đó là trách nhiệm của mỗi cá nhân chúng ta với Tổ quốc thân yêu.

Trong cuộc sống, mỗi chúng ta cần có hoài bão, ước mơ, có lý tưởng để theo đuổi, phấn đấu để "phải có danh gì với núi sông" . Bởi vậy, mỗi cá nhân phải phát huy các truyền thống tốt đẹp đã và đang có. Điều kiện, hoàn cảnh sống có thể thay đổi nhưng có một điều không bao giờ thay đổi được đó là dân tộc Việt Nam luôn luôn tôn trọng và phát triển những truyền thống tốt đẹp của cha ông ta, đó là tình yêu nước, yêu dân tộc, đoàn kết, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách.... Đặc biệt, tương lai, vận mệnh đất nước nằm trong tay thế hệ trẻ chúng ta. Với sức trẻ dồi dào, lòng nhiệt tình cống hiến . Thế hệ trẻ khoẻ mạnh thì đất nước vững bền, thế hệ trẻ yếu ớt thì đất nước

18

suy vong. Tuổi trẻ Việt Nam hãy luôn có mơ ước, không ngừng sáng tạo và nhiệt huyết trong lao động.

Để góp phần xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mỗi thanh niên cần có những hành động và việc làm cụ thể sau: + Thứ nhất, thanh niên phải tích cực tham gia học tập, nâng cao trình độ lí luận chính trị, bồi dưỡng tư tưởng cách mạng trong sáng. + Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kĩ thuật và tay nghề. + Thứ ba, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. + Thứ tư, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu. + Thứ năm, thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. + Thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đánh giá rất cao vai trò của thanh niên, luôn quan tâm chăm lo xây dựng và phát huy sức mạnh của các thế hệ thanh niên tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cấp, các ngành và các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội cũng đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như trong: sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, tham gia xây dựng nông thôn mới, văn minh đô thị, bảo vệ môi trường… 

Thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay luôn được sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, điều đó đã tạo ra môi trường hết sức thuận lợi để họ có điều kiện phát triển toàn diện, nhưng cũng đặt ra trách nhiệm cho thanh niên cần tham gia tích cực hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, để phát huy vai trò, trách nhiệm của thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau: + Thứ nhất, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cho thanh niên. + Thứ hai, tạo môi trường thuận lợi để thanh niên tham gia tích cực vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. + Thứ ba, cần có sự quan tâm và chính sách đãi ngộ đối với thanh niên khi tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. + Thứ tư, phát huy tinh thần tự giác học tập, rèn luyện bản thân của thanh niên để góp phần nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

19

Ngày nay, tiếp nối truyền thống của các thế hệ cha anh, đại bộ phận thanh niên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; trung thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; nêu cao tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Thanh niên có khát vọng, ý chí vươn lên, đoàn kết, chia sẻ, tương thân, tương ái, vì cộng đồng và lợi ích quốc gia. Họ luôn có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ, xung kích hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao.

4. Đối với bản thân em

Nhưng có lẽ là nhiều bạn có câu hỏi: “Tôi làm gì để giúp phát triển đất nước?”

Có lẽ đối với mỗi người chúng ta đất nước là gì quá to lớn và xa xôi, ta không cảm thấy tôi nhỏ bé có thể làm được gì cho đất nước. Và đôi khi ta cảm thấy như giữa ta và đất nước không liên hệ gì mấy. Nhưng, cũng như gia đình chỉ là một nhóm của vài người mẹ, cha, mấy anh chị em, còn đất nước cũng chỉ là một nhóm của 80 triệu người. Đông hơn thì có, nhưng quy tắc vẫn là các cá nhân chụm lại mà thành. Và nếu ta làm mạnh cho gia đình ta thế nào, thì ta cũng làm mạnh đất nước ta như thế. Bằng những kiến thức em đã được học trong sách vở, những điều em được thầy cô và gia đình dăn dạy em nhận thấy rằng để góp phần xây dựng đất nước ta giàu đẹp em cần có những hành động cụ thể như:

+ Thứ nhất em luôn làm điều tốt: Học hành chăm chỉ, giữ thân thể khỏe mạnh, giữ đầu óc sáng suốt, giúp người già yếu nghèo khổ và các em nhỏ,...

+ Thứ hai em không làm điều xấu: Không hút sách, không trộm cắp, không dối trá, không đánh nhau, không nhũng lạm và tích cực tham gia tuyên truyền để phòng tránh các tệ nạn xã hội …

+ Thứ ba là cần giữ trái tim trong sáng: Tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ gia đình và đất nước ta ngày càng giàu đẹp; luôn làm cho mình giàu mạnh thêm, luôn làm cho mình giỏi giang thêm, luôn hỗ trợ các anh em của mình để họ giàu mạnh thêm và giỏi giang thêm…

+ Thứ tư là rèn luyện ý thức tự giác: Luôn giữ gìn nhà cửa, trường lớp và những nơi công cộng sạch sẽ, không vứt rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, bảo vệ tài sản của cá nhân và công cộng, ...

Nếu tất cả mọi người đều tốt, đều giàu mạnh, đều giỏi giang… thì đương nhiên là cả nước sẽ tốt, sẽ giàu mạnh, sẽ giỏi giang… Phát triển bản thân chính là phát triển đất nước. Làm hại bản thân chính là làm hại đất nước. Giữa chúng ta và đất nước có liên hệ mật thiết như liên hệ giữa ta và gia đình ta. Nếu ta tốt, giàu mạnh, giỏi giang, ta có thể thấy ngay là gia đình ta thêm tốt, giàu mạnh giỏi giang. Đất nước ta cũng thêm tốt, giàu mạnh, giỏi giang như thế, chỉ là khó thấy hơn gia đình một chút vì đất nước quá lớn nên hậu quả không lộ rõ như gia đình.

20

21