triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại việt

7
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35 29 Email: [email protected] TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ KHOA HỌC XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM: PHÂN TÍCH TỪ DỮ LIỆU NETWORK OF VIETNAMESE SOCIAL SCIENCES 2008-2018 Phm Hùng Hip - Trường Đại hc Phú Xuân Ngày nhn bài: 25/4/2019; ngày chnh sa: 24/6/2019; ngày duyệt đăng: 25/6/2019. Abstract: International integration is a mandatory requirement and a dispensible trend for Vietnamese science today. Specifically, when comparing between natural sciences and technology (NS-T) with social sciences (SS), many researchers suggested that SS in Vietnam have a lower level of integration than NS-T. However, according to our understanding, there have not been many statistical studies, estimates and quantitative evaluation of the integration level of Vietnam social science. In this article, using the Network of Vietnamese Social Sciences database developed by AI Social Data Lab, we introduce and analyze research results of domestic and overseas Vietnamese authors within the 2008-2018 period based on the following aspects: individual researchers (gender, study major, cooperation, leadership role), research group, work agency, study major, localities... Based on these preliminary results, a number of recommendations and policy implications would be proposed for policy makers as well as university leaders/managers. Keywords: Social science, international integration, research outputs. 1. Mđầu Hi nhp quc tế là yêu cu bt buc và xu thế không ththay đổi đối vi khoa hc Vit Nam hin nay. Thc tin hoạt động khoa hc trong khoảng 10 năm trở lại đây ghi nhn nhiu nlc, sáng kiến ca cChính phcũng như các cơ sở nghiên cu và giáo dục đại hc (ĐH) trong vic cgắng đẩy nhanh mức độ hi nhp quc tế trong nghiên cu khoa hc (NCKH). Một điểm tương đối tương đồng gia các nlc, sáng kiến này là vic áp dng (bt buc hoc khuyến khích) các chmc (index) tp chí quc tế như ISI Clavirate Web of Science (SCIE, SSCI, AHCI, ESCI) hay Scopus làm căn cứ để đánh giá (xem bng 1). Bng 1. Mt snlc/chính sách ca Việt Nam để hi nhp quc tế trong khoa hc thông qua vic áp dng chmc quc tế để làm căn cứ đánh giá STT Tên nlc/ chính sách Cp thc hin Mô tngn gn 1 Thành lp QuNAFOSTED các quy định vqun lí QuChính phSdng các chmc quc tế như ISI, Scopus làm căn cứ quan trng nhất để nghiệm thu đề tài [1]. 2 Quy chế tuyn sinh và đào tạo ti ến sĩ (08/2017/TT- BGDĐT) Chính phYêu cu giảng viên hướng dẫn và điều kin tt nghip ca nghiên cu sinh phi có công trình công btrên tp chí thuc danh mc ISI/Scopus hoc các n phm quc tế có phn bin [2]. 3 Thưởng bài báo khoa hc Cơ sở giáo dc ĐH hoặc khoa hc Các bài báo ca giảng viên đăng trên các tạp chí thuc chmc ISI, Scopus sđược thưởng (mức thưởng tutheo trường và tutheo chất lượng bài báo). 4 Tuyn dng ging viên Cơ sở giáo dc ĐH hoặc khoa hc Có bài báo công btrên các tp chí thuc chmục ISI, Scopus là điều kin tiên quyết. 5 Khoán chtiêu vslượng công bCơ sở giáo dc ĐH hoặc khoa hc Ging viên/nhà khoa hc khi kí hợp đồng được khoán chtiêu vslượng, chất lượng công btrên tp chí thuc danh mc ISI, Scopus (mức lương thương lượng). Nếu ging viên/nhà khoa hc có slượng/chất lượng vượt so vi chtiêu thì sđược thưởng thêm.

Upload: others

Post on 29-Nov-2021

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại Việt

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35

29

Email: [email protected]

TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ KHOA HỌC XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM:

PHÂN TÍCH TỪ DỮ LIỆU NETWORK OF VIETNAMESE SOCIAL SCIENCES

2008-2018

Phạm Hùng Hiệp - Trường Đại học Phú Xuân

Ngày nhận bài: 25/4/2019; ngày chỉnh sửa: 24/6/2019; ngày duyệt đăng: 25/6/2019.

Abstract: International integration is a mandatory requirement and a dispensible trend for

Vietnamese science today. Specifically, when comparing between natural sciences and technology

(NS-T) with social sciences (SS), many researchers suggested that SS in Vietnam have a lower level

of integration than NS-T. However, according to our understanding, there have not been many

statistical studies, estimates and quantitative evaluation of the integration level of Vietnam social

science. In this article, using the Network of Vietnamese Social Sciences database developed by AI

Social Data Lab, we introduce and analyze research results of domestic and overseas Vietnamese

authors within the 2008-2018 period based on the following aspects: individual researchers (gender,

study major, cooperation, leadership role), research group, work agency, study major, localities...

Based on these preliminary results, a number of recommendations and policy implications would be

proposed for policy makers as well as university leaders/managers.

Keywords: Social science, international integration, research outputs.

1. Mở đầu

Hội nhập quốc tế là yêu cầu bắt buộc và xu thế không

thể thay đổi đối với khoa học Việt Nam hiện nay. Thực

tiễn hoạt động khoa học trong khoảng 10 năm trở lại đây

ghi nhận nhiều nỗ lực, sáng kiến của cả Chính phủ cũng

như các cơ sở nghiên cứu và giáo dục đại học (ĐH) trong

việc cố gắng đẩy nhanh mức độ hội nhập quốc tế trong

nghiên cứu khoa học (NCKH). Một điểm tương đối tương

đồng giữa các nỗ lực, sáng kiến này là việc áp dụng (bắt

buộc hoặc khuyến khích) các chỉ mục (index) tạp chí quốc

tế như ISI Clavirate Web of Science (SCIE, SSCI, AHCI,

ESCI) hay Scopus làm căn cứ để đánh giá (xem bảng 1).

Bảng 1. Một số nỗ lực/chính sách của Việt Nam để hội nhập quốc tế trong khoa học

thông qua việc áp dụng chỉ mục quốc tế để làm căn cứ đánh giá

STT Tên nỗ lực/

chính sách

Cấp

thực hiện Mô tả ngắn gọn

1

Thành lập Quỹ

NAFOSTED và

các quy định về

quản lí Quỹ

Chính phủ Sử dụng các chỉ mục quốc tế như ISI, Scopus làm căn cứ quan trọng

nhất để nghiệm thu đề tài [1].

2

Quy chế tuyển sinh

và đào tạo tiến sĩ

(08/2017/TT-

BGDĐT)

Chính phủ

Yêu cầu giảng viên hướng dẫn và điều kiện tốt nghiệp của nghiên

cứu sinh phải có công trình công bố trên tạp chí thuộc danh mục

ISI/Scopus hoặc các ấn phẩm quốc tế có phản biện [2].

3 Thưởng bài báo

khoa học

Cơ sở giáo

dục ĐH hoặc

khoa học

Các bài báo của giảng viên đăng trên các tạp chí thuộc chỉ mục ISI,

Scopus sẽ được thưởng (mức thưởng tuỳ theo trường và tuỳ theo

chất lượng bài báo).

4 Tuyển dụng

giảng viên

Cơ sở giáo

dục ĐH hoặc

khoa học

Có bài báo công bố trên các tạp chí thuộc chỉ mục ISI, Scopus là điều

kiện tiên quyết.

5 Khoán chỉ tiêu về

số lượng công bố

Cơ sở giáo

dục ĐH hoặc

khoa học

Giảng viên/nhà khoa học khi kí hợp đồng được khoán chỉ tiêu về số

lượng, chất lượng công bố trên tạp chí thuộc danh mục ISI, Scopus

(mức lương thương lượng). Nếu giảng viên/nhà khoa học có số

lượng/chất lượng vượt so với chỉ tiêu thì sẽ được thưởng thêm.

Page 2: Triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại Việt

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35

30

Khi đối sánh về mức độ hội nhập quốc tế, nhiều ý kiến

cho rằng khoa học xã hội (KHXH) ở Việt Nam có mức độ

hội nhập thấp hơn so với khoa học tự nhiên, công nghệ.

Mặc dù vậy, theo nhận thức của chúng tôi, vẫn chưa có

nhiều nghiên cứu thống kê, ước lượng và đánh giá một

cách định lượng mức độ hội nhập của KHXH Việt Nam.

Trong bài viết này, sử dụng nguồn dữ liệu Network

of Vietnamese Social Sciences (NVSS), chúng tôi giới

thiệu và phân tích một số kết quả nghiên cứu của các tác

giả người Việt trong và ngoài nước trong giai đoạn 2008

-2018, nhằm góp phần trả lời “khoảng trống” nghiên cứu

kể trên. Cụ thể, chúng tôi sẽ giới thiệu về nguồn dữ liệu

NVSS, mục tiêu, quá trình hình thành và cấu trúc của nó.

Tiếp đó, dựa vào dữ liệu NVSS, chúng tôi giới thiệu và

phân tích, thảo luận một số kết quả nghiên cứu của các

tác giả người Việt trong và ngoài nước trong giai đoạn

2008-2018 (dữ liệu 2018 mới chỉ tính đến hết tháng

11/2018) theo các khía cạnh: cá nhân nhà nghiên cứu

(giới tính, ngành, hợp tác, khả năng dẫn dắt), nhóm tác

giả, trường đại học, ngành, địa phương,... Căn cứ trên kết

quả bước đầu này, một số khuyến nghị và gợi ý chính

sách sẽ được đưa ra đối với các nhà làm chính sách cũng

như lãnh đạo/quản lí ĐH tại phần cuối của bài.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Giới thiệu chung về NVSS

Dữ liệu NVSS do AI Social Data Lab (thuộc Văn

phòng Vuong & Associates) thực hiện và phát triển, bắt

đầu từ tháng 2/2017. AI Social Data Lab bao gồm 7 nhà

nghiên cứu người Việt đang làm việc các đơn vị nghiên

cứu trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực kinh tế, xã hội

học, giáo dục, quản trị và khoa học máy tính. NVSS

(Mạng lưới các nhà nghiên cứu KHXH Việt Nam) là một

cơ sở dữ liệu (CSDL) khoa học mở, ghi nhận kết quả đến

mức độ cá nhân của nhà khoa học thuộc lĩnh vực KHXH

người Việt trong và ngoài nước và các đồng tác giả người

nước ngoài. NVSS hi vọng sẽ góp phần minh bạch hoá kết

quả NCKH thuộc lĩnh vực KHXH, từ đó cung cấp cho các

nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo ĐH/viện nghiên

cứu thông tin đầy đủ và có mức độ tin cậy cao trong các

hoạt động quản lí khoa học của mình. NVSS cũng kì vọng

khắc phục được các một số vấn đề đối với thông tin liên

quan đến KHXH ở Việt Nam của các CSDL quốc tế sẵn

có là: + Dữ liệu lặp; + Độ trễ thời gian lớn; + Tốn kém

(Vuong, La và cộng sự, 2018) [3].

Về mặt thời gian, NVSS hiện nay chỉ ghi nhận các

bài báo khoa học được công bố trong danh mục Scopus

từ năm 2008 trở lại đây. Danh mục Scopus dự kiến sẽ

được bổ sung bằng các danh mục khác ngoài Scopus

nhưng được NAFOSTED công nhận trong thời gian tới.

Năm 2008 là mốc được chọn vì nó trùng với năm Quỹ

NAFOSTED chính thức đi vào hoạt động. Trong tương

lai, cũng có thể chúng tôi sẽ mở rộng thời gian ghi nhận

dữ liệu cho khoảng 2008 trở về trước.

Các tác giả quốc tịch Việt Nam đạt 1/2 tiêu chí sau

đây sẽ được ghi nhận vào CSDL của NVSS: + Có ghi cơ

quan chủ quản là một đơn vị có địa chỉ tại Việt Nam;

+ Bài nghiên cứu về chủ đề hoặc có lấy dữ liệu từ Việt

Nam (lưu ý: nếu một tác giả người Việt, giả sử có 10 bài

trong đó chỉ 4 bài đạt 1/2 tiêu chí kể trên thì 6 bài còn lại

sẽ không được ghi nhận vào dữ liệu của NVSS).

Quy trình thu thập dữ liệu ban đầu được thực hiện hoàn

toàn dựa vào nhân lực; sau một thời gian phát triển, đến

tháng 12/2017, quy trình cơ bản bao gồm các bước sau đây:

- Bước 1: Thu thập dữ liệu của các nhà khoa học và

kiếm tra chéo với 5 nguồn khác nhau bao gồm:

(i) Website của các tạp chí tương ứng; (ii) Thông tin từ

các website chính thống; (iii) Google Scholar; (iv) Dữ

liệu Scimago hoặc Scopus; và (v) Các dữ liệu khác nếu

cần như PubMed, ISI WoS…

- Bước 2: Nhập dữ liệu đã được kiểm tra vào hệ thống

NVSS và kiểm tra chất lượng bằng hệ thống tự động

nhằm đánh giá mức độ nhất quán và chính xác;

- Bước 3: Xác thực dữ liệu (thông qua 3 nấc admin,

giám sát và người thu thập) để chính thức đưa vào dữ liệu

NVSS.

Việc áp dụng và sử dụng NVSS: Trong 2 năm 2017-

2018, NVSS đã được áp dụng và sử dụng trong nghiên

cứu, đào tạo, tập huấn và tư vấn, cụ thể:

+ Về nghiên cứu, nhóm NVSS đã công bố 7 bài báo

trên các tạp chí chuyên ngành: Ho, Do, Pham và Vuong,

2017 [5]; Ho, Nguyen, Vuong, Dam, Pham và Vuong,

2017 [4]; Ho, Vuong và Vuong, 2017 [6]; Vuong, Ho,

Vuong, Nguyen, Napier và Pham, 2017 [7]; Vuong, La

và cộng sự, 2018 [3]; Vuong, Napier và cộng sự, 2018

[9]; và Vuong, Nguyen, Ho, Ho và Vuong, 2018 [10];

+ Về đào tạo, tập huấn, seminar: dữ liệu NVSS được

sử dụng làm tài liệu đào tạo, tập huấn, seminar về NCKH

và xuất bản quốc tế tại Hội đồng Lí luận Trung ương,

Trường ĐH Ngoại thương, Trường ĐH Huế, Trường ĐH

Phú Xuân, Trường ĐH Thành Tây (nay là Trường ĐH

Phenikaa) và trong Chương trình Research Coach in

Social Sciences thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Thực

hành Giáo dục;

+ Về truyền thông: dự án NVSS đã được một số

báo/tạp chí trong nước nhắc đến như: Nhân dân, Thanh

niên, Tiền phong, Vietnamnet, Tia Sáng, Khoa học và

Phát triển,...

2.2. Một số kết quả nghiên cứu của khoa học xã hội

Việt Nam giai đoạn 2008-2018: phân tích từ NVSS

2.2.1. Dữ liệu cá nhân

Tính từ ngày 1/1/2008 đến hết ngày 30/11/2018 (10

năm, 11 tháng), dữ liệu NVSS đã ghi nhận có 1.070 tác giả

Page 3: Triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại Việt

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35

31

Việt Nam, hợp tác với 1.344 tác giả nước ngoài, công bố

1.937 bài nghiên cứu trên các ấn phẩm quốc tế được Scopus

chỉ mục (bao gồm tạp chí, sách và kỉ yếu hội nghị). Bảng 2a

và 2b thể hiện danh sách của 10 tác giả hàng đầu theo giới

tính nam và nữ (nếu xếp chung nam và nữ trong 01 bảng thì

nhà khoa học nữ xếp thứ 1 trong bảng của nữ sẽ đứng thứ 9

trong bảng của nam). Nếu chỉ tính 10 tác giả đầu tiên (cả

nam và nữ) thì tổng sản lượng của 10 (tức là khoảng 1%)

người này đóng góp 21,76% tổng sản lượng của cả nước.

2.2.2. Dữ liệu tổ chức

Ở góc độ tổ chức, dữ liệu NVSS ghi nhận đã có 387 cơ

sở nghiên cứu/giáo dục ĐH từ Việt Nam, hợp tác với 675

cơ sở nước ngoài để công bố 1937 bài nghiên cứu kể trên.

Bảng 3 thống kê 10 đơn vị có số lượng dẫn đầu cả nước về

sản lượng (số lượng công bố) trong giai đoạn 2008-2018:

Bảng 3. Top các tổ chức Việt Nam

theo số lượng công bố giai đoạn 2008-2018

STT Mã kí hiệu đơn vị Số bài

1 PU.1 241

2 PU.2 127

3 PU.3 101

4 PI.4 98

5 PU.5 95

6 PU.6 68

7 NU.7 61

8 PO.8 58

9 NI.9 46

10 PU.10 36

Trong đó: PU: Public University (cơ sở giáo dục ĐH

công); PI: Public Research Institute/Center (Viện/Trung

tâm NC công); NU: Non-public University (Cơ sở giáo

dục ĐH ngoài công lập); NI: Non-public Institute/Center

(Viện/Trung tâm nghiên cứu ngoài công lập).

Từ bảng 3, ta thấy, nếu chỉ tính 5 tổ chức đầu tiên thì

tổng sản lượng của 5 tổ chức này đóng góp 34,41% tổng

sản lượng của cả nước.

2.2.3. Dữ liệu theo địa phương

Hình 1 (trang bên) thể hiện bản đồ kết quả công bố theo

số lượng theo địa phương. Hình tròn càng to thể hiện địa

phương càng có nhiều công bố. Cụ thể Hà Nội, TP. Hồ Chí

Minh là hai địa phương có nhiều công bố nhất cả nước, tiếp

theo đó là Đà Nẵng, Cần Thơ, Khánh Hoà, Nha Trang.

Hình 2 (trang bên) thể hiện mức độ hợp tác của các

tác giả từ Việt Nam so với các tác giả quốc tế (trong đó

có bao gồm tác giả Việt Nam nhưng lại đang làm việc ở

nước ngoài). Hình 3, 4 tương tự hình 2 nhưng chỉ tính

cho 2 địa phương là Hà Nội và Huế.

2.2.4. Dữ liệu theo ngành

Tổng kết theo ngành (lĩnh vực) công bố, chúng tôi

thu được kết quả như bảng 4 dưới đây:

Bảng 4. Top các ngành ở Việt Nam

theo số lượng công bố giai đoạn 2008-2018

STT Tên ngành Số bài

1 Kinh tế 495

2 Chăm sóc sức khoẻ 242

3 Giáo dục 239

4 Kinh doanh 215

5 Xã hội học 152

6 Môi trường, khoa học bền vững 133

7 Nông nghiệp 109

8 Quản lí 101

9 Luật 83

10 Khoa học chính trị 67

Bảng 2a. Top nhà khoa học nam giới người Việt

theo số lượng công bố giai đoạn 2008-2018

Bảng 2b. Top nhà khoa học nữ giới người Việt

theo số lượng công bố giai đoạn 2008-2018

STT Mã kí hiệu tác giả Số bài STT Mã kí hiệu tác giả Số bài

1 Vm.828 96 1 Vf. 294 30

2 Vm.16 71 2 Vf.842 29

3 Vm.3 61 3 Vf.37 23

4 Vm.4 57 4 Vf.401 22

5 Vm.402

Vm.833

50 5 Vf.2004 18

50

6

Vf.146

Vf.835

Vf.910

17

7 Vm.854 38 17

8 Vm.400 35 17

9 Vm.76 29 9

Vf.240

Vf.204

16

10 Vm.694 25 16

Trong đó: Vm: Vietnamese and Male (người Việt có giới tính nam);

Vf: Vietnamese and Female (người Việt có giới tính nữ).

Page 4: Triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại Việt

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35

32

Từ bảng 4 có thể thấy lĩnh vực kinh tế, y học (chăm

sóc sức khoẻ) và giáo dục là ba lĩnh vực có lượng công

bố lớn hơn cả. Điều này cho thấy các nghiên cứu ở Việt

Nam đang mạnh về các lĩnh vực này.

2.2.5. Dữ liệu theo nhóm nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu ở đây được chúng tôi định nghĩa là số

lượng đồng tác giả xoay quanh một nhà nghiên cứu. Tức là

một nhà nghiên cứu nếu ít nhất có công bố chung với một

đồng nghiệp, tức là đã tự có cho mình một nhóm nghiên cứu.

Dữ liệu NVSS cho thấy, nhóm có đông tác giả nhất là 109

người (nghĩa là có một nhà nghiên cứu đã từng công bố chung

ít nhất 01 bài với 108 người trong 11 năm từ 2008-2018).

Xu hướng chung là một nhóm nghiên cứu có kết quả

công bố (của toàn nhóm) tốt thì trong nhóm sẽ có một số

nhà nghiên cứu có kết quả tốt (chiều ngược lại chưa chắc

và sẽ được chúng tôi thảo luận sau). Tất nhiên, từ một

nhóm nghiên cứu mạnh với một vài nhà nghiên cứu tốt

thì có thể chia thành nhiều nhóm nhỏ.

Hình 1. Bản đồ kết quả công bố

theo số lượng theo địa phương

Hình 2. Mức độ hợp tác của các tác giả

từ Việt Nam so với các tác giả quốc tế

Hình 3. Mức độ hợp tác của các tác giả từ Hà Nội

so với các tác giả quốc tế

Hình 4. Mức độ hợp tác của các tác giả từ Huế

so với các tác giả quốc tế

(a) 2008-2010 (b) 2008-2014 (c) 2008-2018

Hình 5. Sự lớn mạnh của một nhóm nghiên cứu trong 3 giai đoạn (Nguồn Vuong et al., 2018 [9])

Page 5: Triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại Việt

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35

33

Hình 5 (trang trước) mô tả sự lớn mạnh của 1 nhóm

nghiên cứu theo 3 giai đoạn : (a) 2008-2010; (b) 2008-2014;

và (c) 2008-2018. Sự lớn mạnh này tăng đồng tốc với sự lớn

mạnh của 1 cá nhân nhà khoa học có kí hiệu Vm.4. Sự lớn

mạnh của cả nhóm mà tác giả Vm.4 là trưởng nhóm này

cũng kèm theo sự lớn mạnh của 1 số nhà khoa học: nếu như

giai đoạn 2008-2010, chúng ta thấy có 1 tác giả có kết quả

nghiên cứu tương đối cao (vm.413) làm “vệ tinh” quan

trọng nhất của Vm.4; thì trong giai đoạn 2008-2014, chúng

ta thấy số lượng vệ tinh này lên khoảng 4 người; và trong

giai đoạn 2008-2018, số lượng này là khoảng 10 người.

2.3. Thảo luận

2.3.1. Mức độ hội nhập quốc tế của ngành khoa học xã

hội so với ngành khoa học tự nhiên

Kết quả thu thập dữ liệu của chúng tôi tái khẳng định

mức độ hội nhập quốc tế của ngành KHXH là thấp hơn so

với ngành KHTN. Tổng sản lượng công bố toàn ngành

KHXH trong vòng 11 năm chỉ tương đương với tổng sản

lượng công bố của một chuyên ngành trong lĩnh vực

KHTN trong vòng 2-3 năm. Ví dụ, theo thống kê của

Scimago (cũng lấy dữ liệu từ

Scopus) thì trong 2 năm 2016

-2017, ngành toán ở Việt Nam

công bố 1.857 bài báo; còn

trong 3 năm 2015-2017, ngành

Khoa học vật liệu ở Việt Nam

công bố 2.144 bài báo

(Scimago, 2018 [10]); đều là

mức tương đương với 1.937

bài báo của toàn ngành KHXH

trong 11 năm 2008-2018.

Mặc dù vậy, nếu nói

KHXH Việt Nam không hoặc

chưa hội nhập quốc tế thì cũng

không thật chính xác. Thậm

chí, chuyên ngành Khoa học

chính trị, chuyên ngành vốn

được xem là “nhạy cảm” thì

cũng đã có 67 bài công bố

trong 11 năm, chứng tỏ không

phải là không có những bộ

phận nhất định trong ngành

này đã có năng lực hội nhập

quốc tế. Bên cạnh đó, số liệu

NVSS cũng cho thấy, đã có tới

26,4% tác giả đã có ít nhất 01

bài solo (tác giả đứng tên một

mình) và 40,8% số bài công bố

là hoàn toàn nội lực (không có

tác giả không phải là người

Việt Nam), điều này cho thấy

tiềm năng phát triển và hội nhập của KHXH là rất lớn; nhất

là trong bối cảnh các vấn đề nghiên cứu lấy dữ liệu từ Việt

Nam vẫn tương đối khan hiếm.

2.3.2. Vấn đề sản lượng và năng suất

Tiềm năng phát triển và hội nhập quốc tế của KHXH

Việt Nam là tương đối lớn, nhưng vấn đề là làm sao khai

thác và “chiếm lĩnh” được dư địa đó? Câu hỏi này thực chất

đưa chúng ta quay lại một câu hỏi khác, có tính chất căn cốt

đối với mọi lĩnh vực (không chỉ là trong nghiên cứu), đó là

làm sao để tăng được sản lượng thông qua tăng năng suất?

Để trả lời câu hỏi này, trước tiên ta cùng xem hình 6 và

hình 7 dưới đây. Hình 6 cho thấy sản lượng công bố của

Việt Nam là tăng tương đối đều trong 11 năm qua; nhưng

lại có dấu hiệu đi ngang trong khoảng 3 năm trở lại đây.

Nhưng nếu xem xét thêm hình 7 thì ta lại thấy có một vấn

đề mới: trong khi số lượng tác giả mới lần đầu tiên có công

bố được ghi nhận hàng năm tăng nhanh, thì tổng sản lượng

lại có dấu hiệu đi ngang. Điều này hàm ý các tác giả cũ đang

có dấu hiệu chững lại? Hay nói cách khác, dường như năng

suất của các tác giả cũ đang bị thấp đi?

Hình 6. Sản lượng công bố của toàn ngành KHXH giai đoạn 2008-2018

(Trục tung là tổng số bài báo; cột bên trái là bài báo có tác giả là nam giới;

cột giữa là bài báo có tác giả là nữ giới; cột bên phải là tổng số bài báo)

Hình 7. Số lượng tác giả lần đầu có công bố giai đoạn 2008-2018

Page 6: Triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại Việt

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35

34

2.3.3. Vấn đề trưởng nhóm nghiên cứu

Mô tả của chúng tôi về nhóm nghiên cứu do tác giả Vm.4

đứng đầu cho thấy tầm quan trọng của 01 trưởng nhóm

nghiên cứu trong việc dẫn dắt nhóm. Tất nhiên, ở chiều ngược

lại việc có nhóm nghiên cứu cũng giúp chính bản thân trưởng

nhóm có thể phát triển lên những tầm cao mới.

Mặc dù vậy, dữ liệu của NVSS cho thấy, có một số

lượng tương đối lớn nhà khoa học Việt Nam có công bố

một mình cao, nhưng lại không có trong danh sách các

tác giả có tổng sản lượng cao nhất. Cụ thể, theo thống kê

tại bảng 5a, 5b, đối sánh với bảng 2a, 2b, có thể thấy có

đến 6 người trong top 10 nhà khoa học nam có nhiều bài

một tác giả nhất và 8 người trong top 10 nhà khoa học nữ

có nhiều bài một tác giả nhất không xuất hiện trong top

10 người có tổng sản lượng cao nhất tương ứng.

Có 2 cách lí giải cho hiện tượng này: Một là, những

nhà khoa học này không thích làm việc theo nhóm; hai

là, những nhà khoa học này không có điều kiện để tập

hợp nhóm để làm nghiên cứu. Chúng tôi nghiêng về cách

lí giải thứ hai và nhiều đồng nghiệp của chúng tôi cũng

có quan điểm tương tự. Ví dụ, trả lời phỏng vấn của

chúng tôi, Vf.294, nhà khoa học nữ có sản lượng cao nhất

(đứng thứ 9 nếu tính chung cả 2 giới), cho rằng: “đến một

mức độ phát triển (nghề nghiệp) nào đó, chúng ta không

thể không làm mà không có nhóm nghiên cứu”.

3. Kết luận

Từ những số liệu và phân tích trên, có thể đưa ra một số

khuyến nghị cho các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo

giáo dục ĐH và khoa học về nghiên cứu về khoa học xã hội.

- Khuyến nghị 1: Hội nhập quốc tế trong nghiên cứu

KHXH là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược. Trong bối

cảnh đó, sử dụng các chỉ mục quốc tế như ISI/Scopus và

các chỉ số đo lường khoa học như IF, H-index,

Almetrics… là biện pháp hiệu quả nhất giúp đo lường,

đánh giá mức độ hội nhập trong nghiên cứu.

- Khuyến nghị 2: Trong các giải pháp nhằm nâng cao

sản lượng, chất lượng và năng suất nghiên cứu, việc đầu

tư vào các nhóm nghiên cứu mạnh là giải pháp quan

trọng, đã được nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra và cũng

được nghiên cứu này tái khẳng định.

- Khuyến nghị 3: Trong một nhóm nghiên cứu, người

đứng đầu nhóm đóng vai trò quan trọng nhất. Nói cách

khác, đầu tư, quan tâm vào nhóm nghiên cứu cũng chính

là việc đầu tư, quan tâm đến những người đứng đầu của

nhóm - hay nói cách khác là những người có sản lượng,

chất lượng, năng suất nghiên cứu tốt.

- Khuyến nghị 4: Mặc dù vậy, căn cứ dữ liệu NVSS

như đã trình bày ở trên, có thể thấy, vẫn còn nhiều nhà

khoa học có trình độ cao chưa có được nhóm nghiên cứu

đủ mạnh để phát huy được tiềm năng. Vì vậy, nhiệm vụ

của các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo đại

học/khoa học là tạo chính sách, cơ chế để các nhóm

nghiên cứu mạnh được hình thành, xoay quanh các nhà

khoa học có trình độ cao, thể hiện qua số lượng, chất

lượng và sản lượng công bố quốc tế.

- Khuyến nghị 5: Trong các hình thức cấp kinh phí

cho nhóm nghiên cứu, chúng tôi cho rằng hình thức

khoán chi theo chỉ tiêu công bố (số lượng, chất lượng) là

hiệu quả nhất vì hiệu quả và tính dễ giám sát của nó so

với các hình thức khác.

- Khuyến nghị 6: Trong khuôn khổ một bài nghiên

cứu, chúng tôi chưa thể đưa vào chi tiết các yếu tố có thể

có đối với việc đánh giá nhà khoa học/nhóm nghiên cứu,

ví dụ như chỉ số H, IF… Trong các nghiên cứu khác, để

đảm bảo các gợi ý toàn diện hơn, chúng tôi khuyến nghị

Bảng 5a. Top nhà khoa học nam giới người Việt

theo số lượng bài báo có 01 tác giả công bố

giai đoạn 2008-2018

Bảng 5b. Top nhà khoa học nữ giới người Việt

theo số lượng bài báo có 01 tác giả công bố

giai đoạn 2008-2018

STT Mã kí hiệu tác giả Số bài STT Mã kí hiệu tác giả Số bài

1 Vm.16 64 1 Vf.146 7

2 Vm.4 22

2

Vf.213

Vf.275

Vf.470

6

3 Vm.3 19 6

4 Vm.151 18 6

5 Vm.18

Vm.694

11

5

Vf.902

Vf.11

Vf.99

Vf.256

Vf.270

Vf.294

5

11 5

7 Vm.927 10 5

8

Vm.75

Vm.271

Vm.342

7 5

7 5

7 5

Ghi chú: Các tác giả in nghiêng cũng có tên trong bảng 2a và 2b tương ứng.

Page 7: Triển vọng hội nhập quốc tế về khoa học xã hội tại Việt

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 29-35

35

các nhà khoa học bổ sung và xem xét các chỉ số kể trên

trong quá trình phân tích, đánh giá.

Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn

TS. Vương Quân Hoàng, Trung tâm Nghiên cứu Xã

hội Liên ngành, Trường Đại học Phenikaa; Phòng thí

nghiệm AI về Dữ liệu xã hội (AI Social Data Lab) và

các thành viên thuộc AI Social Data Lab đã góp ý cho

bài nghiên cứu này. Nghiên cứu được tài trợ một phần

bởi Chương trình Khoa học và công nghệ cấp quốc gia

giai đoạn 2016-2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học

giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện

nền giáo dục Việt Nam” - Đề tài mã số KHGD/16-

20.ĐT.032.

Tài liệu tham khảo

[1] Chính phủ (2003). Nghị định Chính phủ số

122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003 về thành lập

Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia.

[2] Bộ GD-ĐT (2017). Thông tư 08/2017/TT-BGDĐT

ngày 4/4/2017 ban hành quy chế tuyển sinh và đào

tạo trình độ tiến sĩ.

[3] Vuong, Q.H., La, V.P., Vuong, T.T., Ho, M.T.,

Nguyen, T.H.K., Nguyen, T.V.H., Pham, H.H., Ho,

M.T. (2018). An open database of productivity in

Vietnamese social sciences and humanities for

public use. Scientific Data, 5: 180188, DOI:

10.1038/sdata.2018.188.

[4] Ho, T. M., Do, T. H., Pham, H. H., & Vuong, T. T.

(2017). Vài quan sát ban đầu từ dữ liệu Scopus về

công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV của Việt

Nam. Tạp chí Kinh tế và Dự báo

(http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-8323-vai-quan

-sat-ban-dau-tu-du-lieu-scopus-ve-cong-bo-quoc-te

-trong-linh-vuc-khxhnv-cua-viet-nam.html).

[5] Ho, T. M., Nguyen, H. V., Vuong, T. T., Dam, Q.

M., Pham, H. H., & Vuong, Q. H. (2017). Exploring

Vietnamese co-authorship patterns in social

sciences with basic network measures of 2008-2017

Scopus data. F1000Research, 6, DOI:

https://doi.org/10.12688/f1000research.12404.1.

[6] Ho, T. M., Vuong, T. T., & Vuong, Q. H. (2017).

On the sustainability of co-authoring behaviors in

Vietnamese social sciences: A preliminary analysis

of network data. Sustainability, 9(11), 2142, DOI:

https://doi.org/10.3390/su9112142.

[7] Vuong, Q. H., Ho, T. M., Vuong, T. T., Nguyen, H.

V., Napier, N. K., & Pham, H. H. (2017). Nemo

Solus Satis Sapit: Trends of research collaborations

in the Vietnamese social sciences, observing 2008-

2017 Scopus data. Publications, 5, 24.

DOI:10.3390/publications5040024.

[8] Vuong, Q. H., Napier, N. K., Ho, T. M., Nguyen, V.

H., Vuong, T. T., Pham, H. H., & Nguyen, H. K. T.

(2018). Effects of work environment and

collaboration on research productivity in

Vietnamese social sciences: evidence from 2008 to

2017 scopus data. Studies in Higher Education, 1-

16, DOI: 10.1080/03075079.2018.1479845.

[9] Vuong, T. T., Nguyen, H., Ho, T., Ho, T., & Vuong,

Q. H. (2018). The (in) significance of socio-

demographic factors as possible determinants of

Vietnamese social scientists’ contribution-adjusted

productivity: Preliminary results from 2008-2017

Scopus data. Societies, 8(1), 3, DOI:10.3390/

soc8010003.

[10] Scimago. (2018). Country Rankings. Retrieved

from: https://www.scimagojr.com/countryrank.php.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN LUỒNG...

(Tiếp theo trang 10)

Tài liệu tham khảo

[1] Bộ Chính trị (2011). Chỉ thị số 10-CT-TW ngày

5/12/2011 về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5

tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và

trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh

sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn.

[2] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số

29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

[3] Đỗ Thị Bích Loan (2012). Phân luồng và liên thông

trong hệ thống giáo dục - Hướng đến xã hội học tập.

Kỉ yếu Hội thảo quốc tế “Hướng tới đổi mới nền giáo

dục Việt Nam”. Hà Nội, tháng 10/2012, tr 111-117.

[4] Trần Công Phong - Đỗ Thị Bích Loan (2016). Phân luồng

và liên thông trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam

- Lí luận và thực tiễn. NXB Giáo dục Việt Nam.

[5] Sở GD-ĐT Lạng Sơn (2018). Báo cáo số 1290/BC-

SGDĐT, ngày 14/06/2018 về công tác phân luồng

sau giáo dục trung học cơ sở tại vùng đồng bào dân

tộc thiểu số.

[6] Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số

522/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Giáo dục hướng

nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong

giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”.

[7] Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2019). Báo cáo

123/BC-UBND, ngày 27/03/2019 về tình hình thực

hiện các chương trình, chính sách liên quan đến công

tác phân luồng sau giáo dục trung học cơ sở tại các

vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2010-2018.